Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng bạc
Về căn bản, biểu tượng trên đồng tiền kim loại bạc trong thời kỳ này không thay đổi, chỉ thay dòng chữ 'COCHINCHINE' thành chữ 'INDOCHINE'. Ngoài ra có một số thay đổi về trọng lượng, hàm lượng bạc và các ký hiệu bảo an trên đồng tiền.
Việc thay đổi trọng lượng, hàm lượng bạc trong từng thời kỳ phụ thuộc chủ yếu vào quyết định của Ngân hàng Đông Dương cho đồng Đông Dương ấn định theo ngân bản vị (bạc) hay kim bản vị (vàng) hoặc phụ thuộc vào đồng Franc Pháp qua từng giai đoạn. Tuy nhiên trên thực tế đồng tiền bạc Đông Dương tại thời điểm ấn định theo Ngân bản vị cũng không phải là ngân bản vị thực sự mà thay đổi thất thường theo mục đích trục lợi của bọn tư bản tài chính.

Tiền 1piastre, 1885 - 1895 đk 39,5mm
Tiền 1 piastre: Ngày 28/12/1885, Thống đốc Nam Kỳ ra quyết định tuyên bố cho lưu hành chính thức đồng bạc piastre. Đồng tiền này có hình tròn, chất liệu hợp kim bạc. Tỷ lệ có thay đổi tùy thời điểm. Mặt trước, chính giữa là hình tượng Marianne đầu đội vương miện tỏa sáng, tay phải cầm cây quyền trượng và hình mỏ neo bên cạnh, phía dưới bên trái đồng tiền là chữ nhỏ “BARRE”, bên cạnh là năm đúc; bao quanh cạnh viền đồng tiền có dòng chữ “REPUBLIQUE FRANCAISE”. Mặt sau có dòng chữ “PIASTRE DE COMMERCE” (chỉ mệnh giá) ở chính giữa, viền xung quanh có dòng chữ “INDO-CHINE FRANCAISE” (Đông Dương thuộc Pháp), “TITRE 0.900. POIDS 27.215” (chỉ hàm lượng bạc và trọng lượng theo gr) đối với những đồng đúc từ năm 1885 đến nửa đầu năm 1895 và dòng chữ “TITRE 0.900. POIDS 27 GR” đối với những đồng đúc từ nửa cuối năm 1895 đến năm 1928. Ngoài ra, viền cạnh xu được bao quanh bởi vòng nguyệt quế, các chi tiết hạt gạo bảo an xung quanh và cạnh đồng tiền được xẻ rãnh hình răng cưa. “Đồng bạc này nặng hơn đồng Mê hi cô cũ và mới. Nặng hơn đồng đô la Hồng Kông 0,259 gr, nặng hơn cả đồng Yên Nhật Bản là vì sợ nhân dân Việt Nam không tín nhiệm. Đó là đồng bạc 1$ đầu tiên phát hành ở Đông Dương”. Tuy nhiên trên thực tế người dân vẫn thích tiêu dùng đồng bạc Mê hi cô hơn.
Từ năm 1885 đến năm 1931, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành 36 đồng kim loại bạc mệnh giá 1 piastre. Ngoài sự thay đổi cơ bản trên, đồng 1 piastre này có một số điểm khác như sau:
Kích thước: Các đồng đúc từ năm 1885 đến 1928 có đường kính 39,5 mm và dày 2,72 mm. Riêng đồng đúc năm 1931, đường kính 35 mm và dày 2,5 mm.
Trọng lượng (POIDS): 9 đồng đúc từ năm 1885 đến nửa đầu năm 1895 có trọng lượng 27,215 gr. Các đồng đúc từ giữa cuối năm 1895 đến năm 1928 có trọng lượng 27 gr. Riêng đồng đúc năm 1931, trọng lượng là 20 gr.
Hàm lượng bạc (TITRE): Các đồng đúc trong suốt giai đoạn này không có sự thay đổi hàm lượng bạc và vẫn giữ ở mức TITRE 0.900.
Đồng tiền đúc năm 1931 hình tượng Marianne là tượng người phụ nữ bán thân, mặt quay về phía trái của đồng tiền và dòng chữ “PIASTRE DE COMMERCE” ở giữa mặt sau đã thay đổi thành “1 PIASTRE 1931”



Tiền 1 piastre, 1895 - 1931, đường kính 39,5mm
Tiền 50 cent: Từ năm 1885 đến năm 1936, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành 5 mẫu đồng xu bằng bạc mệnh giá 50 cent vào các năm 1885, 1894, 1895, 1896 và 1936. Các đồng tiền này đều có đường kính 29mm và dày 2,6 mm.
Mặt trước của đồng tiền so với giai đoạn trước không thay đổi, chính giữa là hình tượng Marianne đầu đội vương miện tỏa sáng, tay phải cầm cây quyền trượng, bên trái có hình mỏ neo, phía dưới bên trái đồng tiền là chữ nhỏ “BARRE”, bên cạnh là năm đúc, bao quanh cạnh viền đồng tiền có dòng chữ “REPUBLIQUE FRANCAISE”. Mặt sau có mệnh giá “50 CENT” ở chính giữa. Viền cạnh đồng tiền bao quanh bởi vòng nguyệt quế và dòng chữ “INDO-CHINE FRANCAISE” (Đông Dương thuộc Pháp), “TITRE 0.900. POIDS 13.607 GR” (chỉ hàm lượng bạc và trọng lượng theo gr). Từ năm 1896, trọng lượng ghi trên mặt sau giảm xuống còn 13,5 gr.

Tiền 50 cent, 1885 và 1936 đường kính 29mm
Tiền 20 cent: Từ năm 1885 đến 1937, Ngân hàng Đông Dương đã cho đúc 35 mẫu đồng tiền xu bằng bạc mệnh giá 20 cent. Mặt trước của các đồng tiền không có gì thay đổi so với các đồng đúc năm 1879 và 1884. Hàm lượng bạc (TITRE) các đồng đúc từ năm 1885 đến năm 1897 là 0.900, các đồng đúc từ năm 1898 đến năm 1916 là 0.835, riêng đồng đúc năm 1909 có 2 loại hàm lượng là 0.900 và 0.835, đồng đúc năm 1920 hàm lượng bạc là 0.400. Từ năm 1921 đến năm 1937 hàm lượng bạc là 0.680.
Trọng lượng (POIDS) các đồng đúc từ năm 1885 đến nửa đầu năm 1895 là 5,443 gr, các đồng đúc từ nửa cuối năm 1895 đến năm 1937 có trọng lượng là 5,4gr, riêng đồng đúc năm 1920 trọng lượng là 6 gr.



Tiền 20 cent, 1885 – 1937, đường kính 26mm
Tiền 10 cent: Từ năm 1885 đến 1937, Ngân hàng Đông Dương đã cho đúc 36 mẫu đồng xu bằng bạc mệnh giá 10 cent. Mặt sau các đồng tiền đều đổi từ dòng chữ “COCHINCHINE” thành “INDO-CHINE FRANCAISE” (chỉ Đông Dương thuộc Pháp). Tiền có đường kính là 19 mm, dày 1,2mm.
Hàm lượng bạc (TITRE): Các đồng đúc từ năm 1885 đến năm 1897 tỷ lệ bạc là 0.900, các đồng đúc từ năm 1898 đến năm 1919 tỷ lệ bạc là 0.835; đồng đúc năm 1920 tỷ lệ bạc là 0.400; các đồng đúc từ năm 1921 đến 1937 tỷ lệ bạc là 0.680.
Trọng lượng (POIDS): Từ năm 1885 đến nửa đầu năm 1895 là 2,721 gr; từ nửa cuối năm 1895 đến năm 1937 là 2,7 gr; riêng năm 1920 là 3 gr.

Tiền 10 cent, 1885 - 1937đường kính 19mm

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng đồng
Kể từ khi kinh thành Huế thất thủ (1885) đến ngày Nhật đảo chính Pháp (3/9/1945), Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông ...

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)
Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc xâm lược Việt ...

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945
Trong giai đoạn này, việc lưu hành tiền Đông Dương được phân chia làm hai thời kỳ khác biệt. Thời kỳ đầu từ ngày 21/01/1875 ...
Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm
Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/tien-dong-duong-indochine-1885-1945-tien-bang-bac-173426.html











