Tòa bác yêu cầu khởi kiện vụ mẹ đòi lại đất đã cho con

TAND khu vực 5 - Hà Tĩnh vừa tổ chức phiên tòa xét xử đối với vụ án dân sự 'Tranh chấp quyền sử dụng đất' giữa nguyên đơn bà Lê Thị C. và các đồng bị đơn anh Phạm Đình L., chị Cao Thị L. (vợ ông L.); anh Phạm Đình C., chị Phan Thị K. (vợ ông C.), đều trú tại thôn Lâm Giang, xã Sơn Giang, tỉnh Hà Tĩnh.

Nội dung vụ án thể hiện, năm 1995, vợ chồng ông Phạm Q. và bà Lê Thị C. (SN 1947) được UBND huyện Hương Sơn (cũ), tỉnh Hà Tĩnh, giao 52 ha diện tích đất rừng tại khu vực Hố Su thôn Lâm Giang, xã Sơn Lâm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Sơn Giang, tỉnh Hà Tĩnh.

Năm 2004, vợ chồng ông bà C. thống nhất chia diện tích đất này (52 ha) thành 3 thửa gồm: 1 thửa mang tên Phạm Đình L. (Con trai) với diện tích 235.218m2; 1 thửa mang tên Phạm Đình C. (Con trai) với diện tích 169.939m2 và 1 thửa đứng tên vợ chồng ông bà với diện tích 111.509m2.

Các bên thỏa thuận, sau khi được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN), khi một trong các bên có yêu cầu thì tổng diện tích đất của anh Phạm Đình L. và anh Phạm Đình C. phải được chia lại cụ thể: Cho con trai mỗi người 10 ha, con gái mỗi người 6 ha và nội dung này được thể hiện tại biên bản làm việc do UBND xã Sơn Lâm chủ trì năm 2011.

Năm 2012, các hộ ông Phạm Q., anh Phạm Đình L., anh Phạm Đình C. được cấp GCN đối với diện tích đất trên.

Quang cảnh phiên xét xử.

Quang cảnh phiên xét xử.

Đến năm 2022, nội bộ gia đình ông Q. đã không thống nhất được với nhau về việc phân chia thửa đất như thỏa thuận trước đó. Việc tranh chấp kéo dài, năm 2024, ông Q. mất.

Đến tháng 4/2025, bà C. sau nhiều lần yêu cầu các con trai của mình trả lại 1 phần diện tích đất đã cho nhưng không được đồng ý nên bà đã khởi kiện ra TAND khu vực 5, yêu cầu Tòa án buộc 2 người con trai trả lại đất như biên bản đã thỏa thuận khi cho đất, theo đó, bà C. yêu cầu anh Phạm Đình L. trả lại cho bà 135.218m2 /235.218m2 và anh Phạm Đình C. trả lại cho bà 69.939m2/169.939m2.

Kiểm sát viên Nguyễn Hoài Thương - Phó Viện trưởng VKSND khu vực 5 - Hà Tĩnh cho biết, đây là vụ án dân sự có tính chất điển hình, diễn ra trong thời gian dài, các bên đương sự có mối quan hệ huyết thống với nhau, mặc dù đã có nhiều buổi làm việc nhưng vẫn không thể hòa giải được.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã làm rõ nguồn gốc, căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của các đương sự, tính pháp lý của tài liệu chứng cứ… và đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị C. về việc yêu cầu anh Phạm Đình L., chị Cao Thị L. trả lại 135.218m2 diện tích đất rừng của thửa đất số 286, tờ bản đồ 01 và yêu cầu anh Phạm Đình C., chị Phan Thị K. lại 69.939m2 diện tích đất rừng của thửa đất số 336, tờ bản đồ 01.

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Phần đất mà bà C. khởi kiện đòi lại từ anh L. và anh C. mặc dù có nguồn gốc từ mảnh đất vợ chồng bà C. cho các con nhưng đã được những người này sử dụng hợp pháp, sử dụng từ năm 2004 đến năm 2022 không có tranh chấp và đã được được cấp có thẩm quyền cấp GCN theo quy định vào năm 2011.

Việc anh L. và anh C. không thực hiện theo biên bản thỏa thuận với vợ chồng bà C. là chuyện nội bộ gia đình, là sự thỏa thuận riêng của các bên, không làm thay đổi, ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất hợp lệ của những người này đối với những thửa đất đã được cấp GCN.

Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ như: Biên bản làm việc ngày 7/11/2011; Biên bản họp gia đình ngày 4/8/2022; Biên bản giải quyết tranh chấp đất đai ngày 28/10/2022... cũng như lời trình bày của nguyên đơn bà Lê Thị C. có tại hồ sơ và tại phiên tòa thể hiện vào năm 2004, ông Phạm Q. đã thống nhất tách thửa đất của ông Q. thành 3 thửa. Trong đó, giao cho anh L. quản lý, sử dụng 235.218m2 đất; giao cho anh C. quản lý, sử dụng 169.939m2 đất; ông Phạm Q. quản lý, sử dụng 111.509m2 đất. Anh L., anh C đã quản lý, sử dụng trồng keo từ năm 2004 đến nay.

Như vậy quyền quản lý, sử dụng các thửa đất này đã được xác định là anh L., anh C. quản lý, sử dụng từ năm 2004 đến năm 2022 không có tranh chấp.

Mặt khác, tại biên bản làm việc ngày 7/11/2011 tại phòng họp UBND xã Sơn Lâm, ông Phạm Q., anh Phạm Đình L., Phạm Đình C. cùng với sự tham gia của Chính quyền địa phương đã lập biên bản làm việc với nội dung thể hiện nguyện vọng của ông Q.

Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ký kết của ông Phạm Q., anh Phạm Đình C., anh Phạm Đình L., có sự chủ trì, chứng kiến của đại diện UBND xã Sơn Lâm, nên có căn cứ xác định tại thời điểm năm 2011 đã có sự thỏa thuận thống nhất về nguồn gốc, không tranh chấp làm cơ sở cấp đất cho các hộ này.

Ngoài ra, anh L. và anh C. khẳng định việc cấp GCN cho họ là đúng quy định của pháp luật, đồng thời không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C.. Còn việc tự nguyện chia đất cho các em là vấn đề khác.

Hội đồng xét xử còn căn cứ vào những hồ sơ, chứng cứ khác thể hiện việc cấp GCN đối với 3 hộ này hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật.

Từ những phân tích nhận định đánh giá trên nên việc bà Lê Thị C. yêu cầu anh Phạm Đình L. và anh Phạm Đình C., trả lại một phần đất là không có căn cứ để chấp nhận. HĐXX đã tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị C.

Bá Mạnh

Nguồn Công Lý: https://congly.vn/toa-bac-yeu-cau-khoi-kien-vu-me-doi-lai-dat-da-cho-con-505158.html