Tổng chủ biên SGK Ngữ văn nói gì về 'Nỗi buồn chiến tranh'?
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên SGK Ngữ văn, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống đánh giá 'Nỗi buồn chiến tranh' là 'phương án tối ưu' khi đặt vào mạch thiết kế bài học.

Năm 2006, Nỗi buồn chiến tranh lần đầu xuất hiện trong sách giáo khoa (SGK). Suốt 2 thập niên tiếp theo, tác phẩm đã vượt khỏi địa hạt văn chương, gợi mở đề tài nghiên cứu cho hàng loạt lĩnh vực khác từ sử học tới tâm lý học.
Các nhà giáo dục, biên soạn SGK, nhà nghiên cứu lý luận văn học, nhà sử học, dịch giả... nói gì về cuốn tiểu thuyết này?
Thêm góc nhìn về văn học chiến tranh
Cách đây 20 năm, Nỗi buồn chiến tranh xuất hiện trong SGK thuộc chương trình giáo dục phổ thông (CT GDPT) cũ 2006, trong một bài khái quát về văn học Việt Nam hiện đại. Theo sách, tác phẩm được coi là một trong những sáng tác đánh dấu thành tựu của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Đến năm 2018, đoạn trích của tác phẩm này được đưa vào 2 bộ SGK theo CT GDPT mới - bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và bộ sách Cánh diều. Học sinh đọc hiểu tác phẩm để đáp ứng một yêu cầu cần đạt của chương trình ở lớp 12 về nhận biết, phân tích được một số yếu tố của tiểu thuyết hiện đại hoặc hậu hiện đại.
Trong 2 bộ SGK, đội ngũ biên soạn đều dành dung lượng lớn trích đăng tác phẩm. Bộ SGK Kết nối tri thức với cuộc sống trích một đoạn 5 trang kể về một phần quãng đời của nhân vật Kiên sau chiến tranh; còn bộ sách Cánh diều trích 6 trang kể về một lần đơn vị của Kiên tìm đường vượt vòng vây của địch.

Tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống". Ảnh: Vietnam Plus.
TS Trần Ngọc Hiếu - Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội - đánh giá Nỗi buồn chiến tranh được đưa vào SGK là tín hiệu tốt.
Thứ nhất, thông qua tác phẩm, học sinh có thể hiểu góc độ tiếp cận của tiểu thuyết với hiện thực đời sống. Theo đó, tiểu thuyết phân biệt với thể loại sử thi, tức miêu tả đời sống thông qua cảm nhận cá nhân, không phải theo kinh nghiệm của cộng đồng.
Thứ hai, về tính giáo dục, tiểu thuyết là thể loại khám phá con người cá nhân. Nhận thức về con người cá nhân cần được nghiên cứu, nhất là trong những biến cố mà trải nghiệm của cá nhân ít được lắng nghe. "Phát triển nhận thức, quan điểm cá nhân là góc độ giáo dục cần chú trọng, đặc biệt với độ tuổi 17-18", TS Hiếu nói.
Thứ ba, về tính học thuật, bộ sách thông qua tác phẩm giới thiệu một số các đặc trưng của hình thức tự sự hiện đại, ví dụ muốn học sinh nắm kỹ thuật dòng ý thức - đây cũng là một phương tiện làm nên tính hiện đại của tác phẩm này.
Tiểu thuyết của nhà văn Bảo Ninh đáp ứng các tiêu chí đặt ra về tiểu thuyết hiện đại. PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, Tổng chủ biên SGK Ngữ văn, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống đánh giá tác phẩm là “phương án tối ưu” khi đặt vào mạch thiết kế bài học trong SGK.
“Một tiểu thuyết ‘hay’, ‘tốt’ theo nghĩa không có gì gây tranh cãi mà không hội đủ những đặc điểm (của tiểu thuyết hiện đại - PV) thì cũng khó để dùng làm ngữ liệu trong bài học về tiểu thuyết hiện đại vì không đáp ứng tốt yêu cầu của chương trình”, PGS.TS Hùng giải thích.

Phần câu hỏi đọc hiểu văn bản “Nỗi buồn chiến tranh” trong bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống", sách Ngữ văn lớp 12. Ảnh: Vietnam Plus.
Tuy nhiên, mới đây, sau khi tác phẩm được tôn vinh là một trong 50 tác phẩm văn học nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày đất nước thống nhất, nhiều tranh luận nổ ra. Tranh cãi trên mạng xã hội xoay quanh lo ngại nội dung tác phẩm của Bảo Ninh không phù hợp, gây cách hiểu sai lệch về cuộc chiến cho học sinh.
Ông Bùi Mạnh Hùng khẳng định đội ngũ biên soạn SGK luôn có ý thức tránh cho học sinh có cái nhìn phiến diện khi tiếp cận tác phẩm.
Cụ thể, một câu hỏi đọc hiểu văn bản Nỗi buồn chiến tranh trong SGK ghi: “Trong hồi ức của Kiên, chiến tranh đã hiện lên với 'khuôn mặt' như thế nào? Theo hiểu biết của bạn, đây có phải là 'khuôn mặt' duy nhất của chiến tranh hay không? Vì sao?”.
"Việc đưa 'Nỗi buồn chiến tranh' vào SGK mới giúp học sinh có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn về những cuộc chiến mà dân tộc chúng ta đã trải qua. Các em hiểu được rằng những cuộc chiến đó rất đỗi hào hùng, vinh quang nhưng có cả mất mát, đau thương", Tổng chủ biên SGK Ngữ văn, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, nhận định.
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng kiên quyết rằng mọi lựa chọn ngữ liệu trong SGK đều đã đáp ứng đồng thời nhiều tiêu chí, điều kiện nghiêm ngặt theo yêu cầu cụ thể của chương trình và mạch triển khai của bộ SGK cụ thể.
Việc đưa 'Nỗi buồn chiến tranh' vào SGK mới giúp học sinh có cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn về những cuộc chiến mà dân tộc chúng ta đã trải qua
PGS.TS Bùi Mạnh Hùng
Phản biện thêm những lo ngại rằng quá khứ bị phủ định giá trị vì tác phẩm, TS Trần Ngọc Hiếu cho rằng tâm lý này có phần “lo xa”. Theo TS, trong chương trình cấp 2, cấp 3, học sinh đã học rất nhiều các tác phẩm với âm hưởng chủ đạo là anh hùng ca, các em cần có những trải nghiệm khác nữa, không nên chỉ có một cái nhìn đơn nghĩa về quá khứ như thể “hiện vật”.
“Điều tôi day dứt nhất là làm thế nào để học sinh hiểu rằng trong tiểu thuyết này có trải nghiệm của Kiên khi bằng tuổi các em, tức chỉ mới 17-18 tuổi nhưng đã phải thấy cái dữ dội của chiến tranh. Lứa tuổi đó nên bắt đầu thấy thế giới đa dạng hơn, được quyền đưa quan điểm, được quyền suy tư”, TS Trần Ngọc Hiếu chia sẻ.
Loại hình "tiểu thuyết chấn thương"
TS Trần Ngọc Hiếu cho rằng tiểu thuyết của nhà văn Bảo Ninh và một số tác phẩm văn học được vinh danh trong 50 tác phẩm tiêu biểu sau ngày đất nước thống nhất như Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp)… là tin vui, là nỗ lực đáng ghi nhận. Đây là những tác phẩm nói với người đọc về nỗi buồn và vẻ đẹp của việc làm người.
Chiến tranh có khía cạnh anh hùng, nhưng cũng có khía cạnh cay đắng. Theo TS Trần Ngọc Hiếu, càng ngày người ta càng thấy rõ tiểu thuyết của Bảo Ninh là loại hình “tiểu thuyết chấn thương”. “Nói về chiến tranh mà không được nói về chấn thương cũng là sự bất công với quá khứ”, ông nói.
“Chiến tranh là một giải phổ phức tạp”, TS Hiếu chia sẻ, đồng thời cho rằng tác phẩm đề cập tới những vấn đề có thể trước đây ít nhắc tới. Thí dụ chiến tranh vẫn tác động tới người ta trong thời kỳ hậu chiến, khi quá khứ chiến tranh không khép lại với một cá nhân dễ dàng như khép lại một giai đoạn lịch sử cho cộng đồng.
Tuy nhiên, nói tới nỗi buồn không phải để phủ nhận xương máu của thế hệ đi trước mà chỉ giúp người đọc hiểu hơn giá trị của hòa bình. “Chiến tranh là một tình thế mà người ta buộc phải hy sinh cá nhân cho cộng đồng, điều đó làm nên chiều kích anh hùng cho con người. Nhưng văn chương cũng nói với chúng ta rằng ta không chỉ đề cao chủ nghĩa anh hùng mà còn đề cao hòa bình”, TS Trần Ngọc Hiếu phân tích.
Nói tới nỗi buồn không phải để phủ nhận xương máu của thế hệ đi trước mà chỉ giúp người đọc hiểu hơn giá trị của hòa bình
TS Trần Ngọc Hiếu
Đồng quan điểm, PGS.TS Phạm Xuân Thạch nhận định tác phẩm của nhà văn Bảo Ninh “là sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử”.
Ông cho rằng tác phẩm không phải là một "đối âm" của những tượng đài văn học chiến tranh - vốn được văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa tạo dựng qua hai cuộc chiến tranh lớn của lịch sử dân tộc - mà chỉ tái hiện những đau thương và tàn khốc, cụ thể hóa nó bằng tiếng nói cá nhân.
Các nhà giáo dục đều đồng tình rằng việc đọc Nỗi buồn chiến tranh dù khó, vẫn là chuyện học sinh nên làm. Ông Bùi Mạnh Hùng cho rằng “độc giả Việt cần làm quen với những tác phẩm khó đọc như thế”. Ông khẳng định nếu học sinh chỉ quen đọc những tác phẩm văn học đơn giản thì năng lực đọc, năng lực thưởng thức văn học sẽ không thể phát triển được.
Sức ảnh hưởng đa lĩnh vực của cuốn tiểu thuyết
Nhờ những giá trị mở rộng góc nhìn, giá trị về kỹ thuật viết tiểu thuyết, tác phẩm của nhà văn Bảo Ninh đã gợi mở đề tài cho nhiều nghiên cứu trong đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ trong những năm qua trong lĩnh vực văn học và nhiều lĩnh vực khác.
TS Văn học Trần Thị Thục - Giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - cho biết bà và đồng nghiệp thường xuyên đề cập tới cuốn tiểu thuyết, cho sinh viên thực hiện các nghiên cứu khoa học, khóa luận tốt nghiệp về tác phẩm, so sánh với các tác phẩm viết về chiến tranh và hậu chiến của các nước khác.
TS Thục chia sẻ bản thân đã có bài nghiên cứu trên tạp chí Nghiên cứu văn học: Viết văn như là phương thức tự chữa lành - tự thuật chấn thương trong "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh và "Một nỗi đau riêng" của Oe Kenzaburo, và cuối tháng 12 này TS có một công bố quốc tế so sánh chiến tranh và chấn thương trong Nỗi buồn chiến tranh và Không chiến zero rực lửa.
TS đánh giá ngòi bút của nhà văn Bảo Ninh hướng tới số phận con người - đây là điểm tương đồng với văn học chiến tranh của nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Cuốn tiểu thuyết còn vượt qua khỏi lãnh địa văn chương sang các lĩnh vực khác như tâm thần học, tâm lý học, giới sử học và các khoa học khác cũng rất quan tâm.
GS Laichen Sun giảng dạy đại học tại Fullerton, Mỹ, cho biết sau khi đọc, ông rất xúc động và tác phẩm này đã làm thay đổi cách dạy lịch sử của ông. Trong hơn 10 năm dạy học, trong các tiết học, ông luôn yêu cầu sinh viên đọc tác phẩm này để hiểu hơn về lịch sử, về sự tàn phá của chiến tranh và nuôi dưỡng tình yêu hòa bình.
Dịch giả Hạ Lộ - giảng viên bộ môn văn học Việt Nam tại Đại học Bắc Kinh - cho rằng cách mô tả chiến tranh trong tác phẩm này khiến bà xúc động và thêm trân trọng hòa bình.
Tiểu thuyết này của nhà văn Bảo Ninh cũng từng được Nhà hát Kịch Hà Nội chuyển thể thành vở kịch mang tên Trái tim người Hà Nội năm 2022.

Nhà văn Bảo Ninh đạt giải thưởng Văn học Châu Á năm 2018.
Trước đó, chia sẻ với báo chí, nhà văn Bảo Ninh từng nói: “Tôi viết về chiến tranh để chống chiến tranh. Hoặc có thể nói, viết về chiến tranh tức là viết về ước mong hòa bình, về tình yêu cuộc sống, về tình yêu giữa người với người, về lòng nhân đạo, đức khoan dung".
Nhà văn Bảo Ninh chia sẻ thời còn trẻ, ông chưa bao giờ nghĩ tới việc viết văn. Nhưng sau 1975, ông có hơn một năm làm nhiệm vụ thu gom hài cốt của các trận chiến. Quãng thời gian một năm này khiến ông cảm thấu sức nặng của chiến tranh còn hơn cả trong suốt những năm trực tiếp giao chiến ở mặt trận.
Năm 1986, theo lời khuyên của cha ông (là giáo sư ngôn ngữ học), ông vào học trường Viết văn Nguyễn Du. Bảo Ninh chỉ thực sự bắt đầu viết từ năm 1987, khi đã 35 tuổi.











