Trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Lý Thị Lan: Gắn kết chính sách dân số và chính sách y tế để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân
Sáng 2-12, Quốc hội thảo luận về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, cùng với chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Tham gia phát biểu thảo luận, đồng chí Lý Thị Lan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh đã nêu 5 nhóm kiến nghị trọng tâm, xuất phát từ thực tiễn triển khai nhiệm vụ tại các địa phương miền núi.

Đại biểu Lý Thị Lan phát biểu thảo luận.
Đại biểu cho biết, sau khi nghiên cứu hồ sơ dự kiến tiếp thu, chỉnh lý, nhận thấy còn tồn tại một số vấn đề cần được làm rõ trong thiết kế chính sách và cơ chế thực thi. Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị đã xác định 6 nhóm nhiệm vụ rất lớn nhưng trong hồ sơ trình Quốc hội, ranh giới giữa các nội dung cần thể chế hóa bằng Luật, bằng Nghị quyết cơ chế đặc biệt hay bằng Chương trình mục tiêu quốc gia vẫn chưa thật sự rành mạch. Nếu không phân định rõ, việc triển khai có thể dẫn đến phân tán nguồn lực, chồng chéo nhiệm vụ, khó xác định trách nhiệm và gây khó khăn cho giám sát.
Đặc biệt đối với cấp xã, sự thiếu rõ ràng có thể làm phát sinh lúng túng trong vận dụng chính sách, nhất là khi năng lực quản trị và nhân lực còn hạn chế. Để bảo đảm hiệu quả triển khai Chương trình trong thời gian tới, đại biểu đề nghị bổ sung Phụ lục 1 kèm theo Nghị quyết nhằm chỉ rõ nhiệm vụ của Nghị quyết 72 được triển khai bằng công cụ chính sách nào, như các nội dung về củng cố mô hình y tế cơ sở tại Điều 4, nội dung dân số và phát triển tại Điều 5, nội dung chuyển đổi số tại Điều 8. Đồng thời, tại Điều 10 của Chương trình MTQG, cần bổ sung quy định về lộ trình hoàn thành và cơ quan chịu trách nhiệm đến cùng đối với từng nhiệm vụ, qua đó bảo đảm tính liên thông và minh bạch trong thực thi.
Về nguồn lực cho lĩnh vực “dân số và phát triển”, đại biểu nhận định tỷ trọng vốn hiện nay vẫn chưa tương xứng với yêu cầu tái cấu trúc dân số, nhất là trong bối cảnh mức sinh giảm, già hóa dân số diễn ra nhanh hơn dự báo, mất cân bằng giới tính khi sinh tăng và chất lượng dân số tại các vùng khó khăn còn thấp. Đại biểu đề nghị rà soát và tăng tỷ trọng vốn dành cho lĩnh vực dân số - phát triển trong Khoản 2 Điều 1 của Chương trình, theo hướng quy định rõ mức phân bổ tối thiểu và tương xứng với mục tiêu tái cấu trúc dân số trong bối cảnh mới.
Đồng thời, tại Khoản 3 Điều 3, cần bổ sung các chỉ tiêu bắt buộc như tầm soát trước sinh, tầm soát sơ sinh, duy trì mức sinh hợp lý và chăm sóc người cao tuổi, làm cơ sở cho phân bổ nguồn lực và đánh giá kết quả thực hiện. Bên cạnh đó, tại Điều 7 của Nghị quyết cơ chế đặc thù, đại biểu đề nghị làm rõ cơ chế gắn kết giữa chính sách dân số và chính sách y tế để hai lĩnh vực này được triển khai đồng bộ trong cùng một chương trình.
Liên quan đến nhân lực y tế cơ sở, đại biểu nhấn mạnh, đây đang là điểm nghẽn lớn nhất tại nhiều địa phương miền núi. Nhiều địa phương chỉ đạt dưới 10 bác sĩ/10.000 dân; tỷ lệ điều dưỡng và kỹ thuật viên chưa đạt chuẩn khuyến nghị; chế độ với y tế thôn bản và cộng tác viên dân số còn hạn chế. Trong khi đó, cơ sở vật chất tại nhiều trạm y tế xã xuống cấp, trang thiết bị thiếu đồng bộ, lạc hậu. Năng lực của trung tâm y tế khu vực cũng chưa đáp ứng yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật và luân phiên cán bộ cho tuyến xã.
Khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, những bất cập này càng bộc lộ rõ rệt khi tuyến xã phải đảm đương khối lượng nhiệm vụ lớn nhưng thiếu nguồn lực tối thiểu để bảo đảm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đại biểu đề nghị bổ sung “Tiểu dự án 1a - Phát triển nhân lực tuyến xã” trong Khoản 4 Điều 2 của Chương trình MTQG, bao gồm chính sách hỗ trợ hợp đồng bác sĩ 3 - 5 năm làm việc tại xã; đào tạo bác sĩ gia đình, bác sĩ cộng đồng; đào tạo liên tục và chuyển giao kỹ thuật quản lý bệnh không lây nhiễm cho tuyến cơ sở.
Đồng thời, đề nghị sửa Điểm c Khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết cơ chế đặc thù theo hướng tăng mức hỗ trợ, bảo đảm chế độ ổn định và thực sự tạo động lực cho đội ngũ y tế thôn bản và cộng tác viên dân số; chỉnh sửa Điểm b Khoản 1 Điều 3 để làm rõ vai trò của trung tâm y tế khu vực là nơi hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và luân phiên cán bộ cho tuyến xã. “Đây là những nội dung rất cấp thiết, phù hợp mô hình chính quyền địa phương hai cấp và đặc thù của nhiều tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” - Đại biểu Lý Thị Lan nhấn mạnh.
Về chuyển đổi số y tế, đại biểu cho rằng mục tiêu 100% người dân có sổ sức khỏe điện tử vào năm 2030 là phù hợp với xu hướng phát triển, nhưng nếu không có đầu tư đồng bộ thì có thể làm gia tăng khoảng cách giữa miền núi và đô thị. Đại biểu đề nghị bổ sung quy định về chi cho hạ tầng chuyển đổi số tại trạm y tế xã và trung tâm y tế khu vực; phát triển nền tảng dữ liệu sức khỏe thống nhất toàn quốc, bảo đảm liên thông từ tuyến xã đến trung ương; đồng thời đề nghị bổ sung nội dung thí điểm mô hình “bác sĩ gia đình số” và “tư vấn từ xa” tại vùng khó khăn.
Về điều phối và giám sát, đại biểu Lý Thị Lan cho rằng việc triển khai đồng thời nhiều chương trình tại cấp xã dễ dẫn đến chồng chéo, phân tán nguồn lực và gia tăng gánh nặng báo cáo. Vì vậy, đại biểu đề nghị sửa Điều 9 của Chương trình để quy định một cơ quan đầu mối cấp tỉnh điều phối toàn bộ Chương trình MTQG, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.











