Vững vàng trí tuệ Việt trên đấu trường quốc tế
Thành tích nổi bật của học sinh Việt Nam tại các kỳ thi Olympic quốc tế không chỉ đến từ định hướng đúng đắn, cơ chế hỗ trợ của Bộ GD&ĐT và nỗ lực, tài năng của các em, mà còn từ sự tận tâm, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên, giảng viên trong suốt quá trình phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng và dẫn đoàn.

Đội tuyển Việt Nam tham dự IChO 2025 với thành tích 4 HCV. Ảnh: NVCC
Chia sẻ với Báo Giáo dục & Thời đại về kết quả nổi bật của học sinh Việt Nam tham gia các kỳ Olympic Hóa học khu vực và quốc tế, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà - Trưởng đoàn Việt Nam tham dự Olympic Hóa học Quốc tế (IChO) từ 2023 tới 2025, cho biết:
Năm 1996, đội tuyển quốc gia lần đầu tiên chính thức tham dự IChO. Trong suốt gần ba thập kỷ, Việt Nam đã khẳng định vị thế của mình trên đấu trường quốc tế với tổng cộng 45 Huy chương Vàng (HCV), 44 Huy chương Bạc (HCB) và 24 Huy chương Đồng (HCĐ) - một thành tích nổi bật trong cộng đồng Olympic Hóa học.
Năm 2019 là dấu mốc đặc biệt, khi lần đầu tiên học sinh Việt Nam giành HCV IChO với số điểm thực hành cao nhất. Đặc biệt, giai đoạn 2020 - 2025 ghi nhận những kết quả vượt bậc, khi Việt Nam liên tục nằm trong top 1 - 3 quốc gia dẫn đầu thế giới về số lượng HCV đạt được, với 21 HCV trên tổng số 24 lượt thí sinh dự thi.
“Chúng ta là một tập thể”
- Theo bà, đâu là những yếu tố làm nên kết quả rất đáng tự hào trên?
- Tôi cho rằng, những kết quả nêu trên là kết tinh của rất nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến: Định hướng chiến lược đúng đắn, chỉ đạo kịp thời của Bộ GD&ĐT; sự đổi mới và linh hoạt trong công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, tổ chức tập huấn của đội tuyển Olympic Hóa học Việt Nam; nỗ lực không ngừng của học sinh, giáo viên, trong nâng cao chất lượng đào tạo.
Bộ GD&ĐT là cơ quan chủ trì công tác tuyển chọn, tập huấn đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự IChO. Quy trình tuyển chọn được tổ chức theo hai vòng thi, đảm bảo tính khách quan, công bằng, minh bạch, hướng tới phát hiện chính xác, bồi dưỡng học sinh có năng lực nổi trội trong Hóa học.
Sau khi đội tuyển quốc gia được thành lập, Bộ GD&ĐT giao nhiệm vụ chủ trì công tác tập huấn cho các trường đại học đầu ngành trong từng lĩnh vực chuyên môn tương ứng. Trong đó, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được giao nhiệm vụ chủ trì công tác tập huấn đội tuyển Hóa học quốc gia.
Với mục tiêu không ngừng đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, đội tuyển Hóa học đã chủ động đề xuất và triển khai mô hình phối hợp đa đơn vị trong công tác tập huấn. Đây được xem là một hướng đi sáng tạo, tiên phong, thể hiện tư duy mở, hợp tác, chuyên nghiệp trong đào tạo học sinh giỏi Hóa học.
Trong khuôn khổ mô hình này, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã phối hợp với ba cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu gồm: Trường Đại học khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Hóa và Khoa học Sự sống - Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.
Cơ chế phối hợp này cho phép tận dụng hiệu quả nguồn nhân lực chuyên sâu, cơ sở vật chất hiện đại và kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn của từng đơn vị, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập huấn. Một lợi thế nổi bật của mô hình này là học sinh có cơ hội tiếp cận, thực hành trong nhiều phòng thí nghiệm khác nhau, giúp nâng cao kỹ năng thực hành, khả năng thích nghi, tự tin hơn khi tham dự các kỳ thi quốc tế.
Các nội dung chính của chương trình tập huấn được triển khai như sau: Xây dựng nội dung tập huấn dựa theo bài tập chuẩn bị được ban hành bởi Ủy ban Khoa học IChO; mời các giảng viên tham gia giảng dạy; tổ chức thi thử, đánh giá, phản hồi chuyên sâu; cập nhật tài liệu và xu hướng ra đề quốc tế; chú trọng rèn luyện tâm lý và gắn kết tập thể.
Bên cạnh củng cố kiến thức chuyên môn, công tác tập huấn đặc biệt chú trọng đến rèn luyện tâm lý thi đấu, bồi dưỡng tinh thần đồng đội. Các hoạt động ngoại khóa được tổ chức thường xuyên nhằm tăng cường gắn kết giữa thầy và trò, giữa các thành viên trong đội tuyển. Sự gắn bó này không chỉ giúp học sinh giảm bớt căng thẳng trong quá trình tập huấn, mà còn xây dựng tinh thần “chúng ta là một tập thể” - nét đặc trưng truyền thống của đội tuyển Hóa học Việt Nam trong gần 30 năm qua.
Bên cạnh đó, các em học sinh luôn được nhắc nhở rằng “Thành tích là quan trọng, nhưng đó không phải là thước đo duy nhất của giá trị”. Nếu đã nỗ lực hết mình thì dù kết quả chưa như mong đợi, đó vẫn là một trải nghiệm đáng tự hào, minh chứng cho tinh thần học hỏi, khát vọng vươn lên không ngừng của các em.

PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà.
- Là Trưởng đoàn Olympic Hóa học Việt Nam tham dự IChO trong nhiều năm, bà có thể chia sẻ về công tác dẫn đoàn và cách đồng hành, hỗ trợ học sinh trong suốt quá trình chuẩn bị, tham dự kỳ thi quốc tế?
- Đội tuyển Việt Nam duy trì bốn thầy cô dẫn đoàn, bao gồm: Trưởng đoàn, Phó đoàn và hai thành viên - đều là người có kinh nghiệm trong lĩnh vực Hóa học phổ thông. Trong suốt 10 ngày diễn ra kỳ thi Olympic Hóa học Quốc tế, lịch trình làm việc của các thành viên dẫn đoàn diễn ra với cường độ cao, yêu cầu chuyên nghiệp tuyệt đối.
Theo quy định của Ban tổ chức IChO, các thầy cô phải tham gia gần như toàn bộ các hoạt động chính, bao gồm: Phản biện và góp ý đề thi; dịch đề thi sang tiếng Việt; tham dự các phiên họp, thảo luận về đề thi, phương án chấm điểm; kiểm tra phòng thí nghiệm, khu vực thi thực hành, đảm bảo thí sinh Việt Nam được cung cấp đầy đủ, chính xác hóa chất, dụng cụ.
Thầy cô cũng tham gia chấm thi cho thí sinh của đoàn mình; tranh biện kết quả chấm thi với Ban giám khảo trong trường hợp có sự khác biệt về đánh giá. Mỗi công đoạn đều đòi hỏi sự tập trung, chính xác, tốc độ, hiệu suất làm việc cao.
Chẳng hạn, trong khâu dịch đề thi, phải bảo đảm tính chuẩn xác về thuật ngữ chuyên môn, tránh thêm bớt thông tin; diễn đạt rõ ràng, đơn nghĩa, để thí sinh nắm bắt đúng yêu cầu.
Tương tự, quá trình tranh biện kết quả chấm thi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi khoảng cách giữa HCV, HCB đôi khi chỉ là 0,01-0,02 điểm. Thầy cô phải bảo vệ lập luận của học sinh của mình bằng chứng cứ chuyên môn vững chắc, đảm bảo quyền lợi tối đa cho các em.
Bên cạnh tính chuyên nghiệp, công tác dẫn đoàn của đội tuyển Hóa học Việt Nam còn thể hiện rõ tính kế thừa, phát triển bền vững. Trong đoàn có những thầy cô đã nhiều năm tham gia công tác dẫn đội, tích lũy kinh nghiệm quý báu và xây dựng uy tín trong cộng đồng quốc tế.
Các thầy luôn sẵn sàng hướng dẫn, truyền đạt lại kỹ năng, kinh nghiệm cho thế hệ kế cận. Ngược lại, các giảng viên trẻ luôn thể hiện tinh thần học hỏi, cầu thị, chủ động tiếp thu; bắt đầu từ các hoạt động trực tuyến, quan sát viên khoa học, trước khi đảm nhiệm các nhiệm vụ chính thức.

Đại diện Bộ GD&ĐT và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội động viên đội tuyển Việt Nam tham dự IChO 2025. Ảnh: NVCC
Bài học kinh nghiệm then chốt
- Từ thực tiễn, theo bà, có thể rút ra bài học kinh nghiệm nào góp phần quyết định thành công của đội tuyển Hóa học Việt Nam?
- Tôi cho rằng, có 3 bài học kinh nghiệm then chốt được rút ra, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chính sách đúng đắn, cơ chế linh hoạt, tổ chức hiệu quả của Bộ GD&ĐT là nền tảng của thành công.
Thứ hai, tập huấn chuyên môn theo chuẩn quốc tế, kết hợp hài hòa giữa lý thuyết - thực hành - tâm lý thi đấu là yếu tố quyết định.
Thứ ba, môi trường gắn kết, nhân văn là chìa khóa duy trì động lực, thành tích bền vững.
Từ những bài học kinh nghiệm này, việc tiếp tục duy trì, phát huy và mở rộng mô hình hiện có là hết sức cần thiết để bảo đảm sự phát triển bền vững, nâng cao hơn nữa thành tích của đội tuyển trong tương lai.
Trên cơ sở đó, tôi xin đề xuất một số kiến nghị. Thứ nhất là duy trì, mở rộng các kỳ thi khu vực có uy tín về chuyên môn (như Olympic Hóa học Mendeleev (IMChO), Al Biruni (ArBIChO)), nhằm tăng cường cơ hội cọ xát quốc tế, thúc đẩy phong trào học sinh giỏi trong các trường phổ thông.
Thứ hai, đầu tư chiều sâu cho cơ sở vật chất thí nghiệm, hướng tới xây dựng các phòng thí nghiệm chuẩn quốc tế, đảm bảo điều kiện học tập, thực hành, hiện đại, an toàn và chuẩn hóa.
Thứ ba, phát triển đội ngũ kế cận, chú trọng bồi dưỡng thế hệ giảng viên, chuyên gia trẻ, nhằm đảm bảo tính kế thừa, liên tục trong công tác huấn luyện.
- Kết quả khảo sát học sinh đoạt giải Olympic Hóa học khu vực và quốc tế sau khi các em theo học bậc đại học có cho thấy những điểm đáng chú ý nào không, thưa bà?
- Vấn đề đầu tiên là hệ thống thông tin, cơ chế kết nối giữa các học sinh đoạt giải còn thiếu tính thống nhất và liên thông. Hiện chưa có kênh thông tin chính thức, diễn đàn hay nhóm tổ chức chung giúp kết nối, chia sẻ, duy trì mối liên hệ giữa các thế hệ học sinh từng tham gia các kỳ thi Olympic.
Thứ hai, kết quả khảo sát 47 trên tổng số 116 lượt học sinh đoạt giải tại các kỳ IChO cho thấy phần lớn các em tiếp tục theo đuổi con đường học tập, nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực Hóa học tại các trường đại học hàng đầu trên thế giới. Một bộ phận khác đóng góp tích cực cho công tác đào tạo, nghiên cứu tại các trường đại học trong nước và trên thế giới. Ngoài ra, một số học sinh chọn chuyển hướng sang các lĩnh vực khác như Y học, công nghệ sinh học hoặc công nghệ thông tin, cho thấy năng lực thích ứng, tính đa dạng trong định hướng nghề nghiệp của nhóm học sinh xuất sắc này.
Đáng chú ý, phỏng vấn nguyện vọng của một số học sinh cho thấy các em bày tỏ hai mong muốn nổi bật, đó là: Có cơ chế hỗ trợ, tư vấn hiệu quả trong quá trình du học hoặc chuyển tiếp từ các trường đại học trong nước ra nước ngoài; có cơ hội hợp tác nghiên cứu khoa học với các nhà khoa học, nhóm nghiên cứu trong nước, nhằm duy trì sự kết nối và đóng góp cho nền khoa học Việt Nam, tạo tiền đề cho việc quay trở về Việt Nam làm việc.
- Từ kết quả khảo sát trên và thực tiễn triển khai, bà có đề xuất gì về định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng học sinh đoạt giải Olympic khu vực, quốc tế?
- Đề xuất đầu tiên của tôi là xây dựng cơ chế kết nối và truyền thông nhân tài: Thành lập phòng hoặc ban phụ trách, đồng thời xây dựng mạng lưới kết nối chính thức nhằm quảng bá hình ảnh, thành tích, hành trình học tập, nghiên cứu của học sinh đạt giải; đồng thời tạo không gian để các em giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau.
Cùng với đó, tăng cường hợp tác đào tạo quốc tế với việc nghiên cứu cơ chế phối hợp giữa các trường đại học trong nước và các cơ sở đào tạo quốc tế hàng đầu, hướng tới chương trình chuyển tiếp hoặc đồng cấp bằng, giúp học sinh có thể tiếp tục học tập tại nước ngoài mà không phải bắt đầu lại từ đầu.
Cuối cùng, phát triển mạng lưới nghiên cứu song hành trong nước, quốc tế: Thiết lập các nhóm nghiên cứu hợp tác giữa các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế, trong đó có sự tham gia trực tiếp của học sinh, sinh viên đoạt giải. Các em sẽ vừa đóng vai trò cầu nối tri thức, vừa có cơ hội thực hành, nghiên cứu trong môi trường quốc tế và trong nước, tạo nền tảng để quay về cống hiến cho khoa học Việt Nam trong tương lai.
- Trân trọng cảm ơn bà!
“Thành công của đội tuyển quốc gia Việt Nam tại Olympic Hóa học quốc tế không chỉ phản ánh năng lực ngày càng được nâng cao của học sinh và chất lượng công tác bồi dưỡng trong nước, mà còn cho thấy những bước tiến tích cực trong phát triển giáo dục Hóa học phổ thông. Những kết quả này góp phần khẳng định hướng đi đúng đắn trong đào tạo học sinh có năng khiếu và từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực, cũng như trong cộng đồng giáo dục Hóa học quốc tế”. - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà













