Xây dựng năng lực chủ động ứng phó thiên tai

Thời gian qua, các tỉnh, thành phố miền trung và phía bắc nước ta liên tục gánh chịu bão, lũ. Trước những tác động tiêu cực của thiên tai, ngành giáo dục các địa phương không thể chỉ trông chờ vào cứu trợ, mà cần được trang bị năng lực thích ứng bằng hạ tầng vững vàng, cơ chế linh hoạt, chủ động ứng phó, bảo đảm việc dạy và học.

Lực lượng công an, giáo viên và người dân dọn bùn đất sau lũ tại một điểm trường mầm non vùng cao tỉnh Tuyên Quang.

Lực lượng công an, giáo viên và người dân dọn bùn đất sau lũ tại một điểm trường mầm non vùng cao tỉnh Tuyên Quang.

Kiến tạo năng lực chống chịu cho giáo dục vùng khó

Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2025, đã có 11 cơn bão quét qua các tỉnh, thành phố nước ta, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành giáo dục. Hơn 1.000 cơ sở bị ảnh hưởng, hàng trăm trường học tốc mái, hàng nghìn phòng học hư hỏng; riêng bão số 10 (Bualoi) cuối tháng 9 khiến Hà Tĩnh thiệt hại hơn 429 tỷ đồng, Nghệ An hơn 300 tỷ đồng, nhiều công trình sập tường, tốc mái, thiết bị ở tầng một ngập hỏng.

Ở miền núi phía bắc, mưa hoàn lưu có nơi tới 300 mm/ngày làm sạt lở, ngập sâu hàng chục điểm trường tại Lào Cai, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn; nhiều lớp học phải sơ tán, dạy học tạm trong điều kiện thiếu điện, nước sạch. Bão qua, mái tôn có thể dựng lại, lớp học có thể xây mới, nhưng “những vết thương nội tại” của giáo dục vùng khó vẫn chưa lành. Hàng nghìn phòng học tạm bợ trên nền đất yếu, nhiều điểm trường nằm trong vùng sạt lở, chưa đạt chuẩn an toàn; thiết bị, bàn ghế, máy tính dễ cuốn trôi chỉ sau một trận mưa lớn.

Từ thực tiễn ấy, bài học đặt ra là: Giáo dục vùng khó phải chủ động kiến tạo năng lực chống chịu, bắt đầu từ quy hoạch, hạ tầng, quản trị đến con người.

Sau bão số 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các địa phương rà soát, đánh giá an toàn từng điểm trường; phối hợp ngành xây dựng, tài nguyên môi trường xác định vị trí, nền móng, vật liệu, hình thành chuẩn mới cho “trường học an toàn trong thiên tai”. Một số tỉnh đã chủ động di dời điểm trường khỏi vùng sạt lở, sử dụng vật liệu nhẹ, mái dốc, nền cao, thoát nước tốt, thể hiện tư duy phòng ngừa rủi ro từ khâu thiết kế.

Song song đó, năng lực quản trị linh hoạt được xem là chìa khóa giúp duy trì dạy học: Nhiều trường học đã có kịch bản ứng phó, kịp thời chuyển sang học trực tuyến, tổ chức lớp tạm, “dồn lớp” để không gián đoạn chương trình. Tuy nhiên, sự khác biệt trong hướng dẫn giữa các địa phương cho thấy cần thiết phải xây dựng kịch bản ứng phó thống nhất và hệ thống cảnh báo sớm toàn ngành.

Bên cạnh hạ tầng và quản trị, con người vẫn là nhân tố quyết định sức chống chịu của giáo dục. Nội dung phòng chống thiên tai đã được lồng ghép vào chương trình chính khóa; học sinh cần được rèn kỹ năng nhận biết, trú ẩn, sơ cứu, sơ tán; giáo viên, cán bộ quản lý được tập huấn về “trường học an toàn”.

Khi hạ tầng được củng cố, quản trị đủ linh hoạt và con người được trang bị kỹ năng, giáo dục vùng khó sẽ từng bước có khả năng thích ứng bền vững. Nhưng để những nỗ lực không chỉ dừng lại ở “vượt khó” mà chuyển hóa thành động lực phát triển bền vững, cần một khuôn khổ chính sách đủ mạnh để nâng đỡ, tiếp sức và nhân rộng tinh thần này, như cách cả hệ thống chính trị đã chung tay trong những cơn giông bão vừa qua.

Chính sách đã "chạm", nhưng chưa "thấm"

Thời gian qua, nhiều chính sách quan trọng đã được ban hành nhằm tăng cường bảo vệ và nâng đỡ giáo dục vùng khó. Tư duy chính sách đang chuyển từ ứng phó sang kiến tạo, từ hỗ trợ đơn lẻ, ngắn hạn sang tiếp cận tổng thể, bền vững. Tại Tuyên Quang, hiệu ứng bước đầu đã hiện rõ: Tỷ lệ huy động trẻ mầm non 3-5 tuổi đạt hơn 99%, thuộc nhóm cao nhất cả nước.

Tuy nhiên, đằng sau thành tích đó vẫn còn nhiều khó khăn. Trường mầm non Mậu Long (xã Mậu Duệ, tỉnh Tuyên Quang) có tới 12 điểm lẻ, hơn 660 trẻ, nhưng chỉ có 38 giáo viên; mỗi lớp học là một căn phòng rộng khoảng 42m², chưa đạt một nửa diện tích chuẩn theo quy định. “Với 160.000 đồng/trẻ/tháng, chúng tôi chỉ lo được bữa ăn đủ no, chưa thể đủ dinh dưỡng”, Hiệu trưởng Trần Thị Xuyến chia sẻ.

Thời gian qua, nhiều chính sách quan trọng đã được ban hành nhằm tăng cường bảo vệ và nâng đỡ giáo dục vùng khó. Tư duy chính sách đang chuyển từ ứng phó sang kiến tạo, từ hỗ trợ đơn lẻ, ngắn hạn sang tiếp cận tổng thể, bền vững.

Không chỉ thiếu không gian và nhân lực, nhiều chính sách hỗ trợ vẫn chưa “chạm” đúng thực tế. Một bất cập là cách tính khoảng cách để học sinh được hưởng chế độ bán trú. Theo Nghị định số 116/2016/ NĐ-CP, học sinh tiểu học phải ở cách trường từ 4km trở lên, học sinh trung học cơ sở từ 7km trở lên mới đủ điều kiện, hoặc trường hợp địa hình cách trở, giao thông khó khăn (qua sông, suối không có cầu; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá). Tuy nhiên, nhiều em ở vùng núi chỉ cách trường hơn 3km theo bản đồ, nhưng mỗi ngày phải băng qua những con đường đất lầy lội, đường rừng hiểm trở. Quy định về khoảng cách đôi khi khiến các em chưa được hưởng hỗ trợ.

Thầy Phạm Văn Tường, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Mậu Long, chia sẻ: “Đường đi chỉ vài cây số, nhưng ngày mưa phải mất hơn một tiếng mới tới trường. Các em không đủ tiêu chuẩn hưởng chế độ bán trú, nhưng khó đi về trong ngày”. Câu chuyện cho thấy, chính sách đã tiếp cận vùng khó, nhưng độ hiệu quả còn hạn chế, khi khoảng cách địa lý chưa phản ánh hết thực tế của đời sống.

Tương tự, phụ cấp dạy tiếng Việt hiện chỉ áp dụng cho giáo viên ở điểm lẻ, trong khi tại điểm chính, giáo viên vẫn hằng ngày giảng dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang Hoàng Thị Thu Hiền cho biết: “Chúng tôi có thể bảo đảm có trẻ là có cô, nhưng chưa thể đủ để mỗi lớp có hai giáo viên như quy định”.

Những vướng mắc này không chỉ nằm ở con số, mà ở cơ chế thực thi. Theo Thông tư số 15/2025/TT-BGDĐT, thẩm quyền tuyển dụng và luân chuyển giáo viên tập trung ở cấp tỉnh, khiến chính quyền xã không thể chủ động bù đắp thiếu hụt nhân lực. Ông Lê Trung Quyết, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đồng Văn, tỉnh Tuyên Quang nói: “Xã hiện thiếu tới 28 giáo viên so với định mức, nhưng không thể tự tuyển dụng hay điều động. Mọi thủ tục đều phải chờ Sở”. Điều này dẫn đến tình trạng “vá víu” lực lượng, lớp phải ghép lớp, giáo viên phải dạy vượt giờ. Chỉ cần một giáo viên nghỉ đột xuất, cả điểm trường vùng cao có thể phải đóng cửa.

Từ thực tế khó khăn, ngành giáo dục địa phương rút ra bài học về quản trị rủi ro và thích ứng bền vững. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tuyên Quang đang tham mưu đưa tiêu chí “kiên cố hóa-an toàn chống lũ” vào kế hoạch đầu tư công trung hạn, ưu tiên cho các xã vùng rủi ro cao. Nhiều kiến nghị cũng đã gửi về Trung ương, đề xuất trao quyền chủ động hơn cho cấp xã trong tuyển dụng và luân chuyển giáo viên đi kèm cơ chế giám sát rõ ràng, minh bạch.

Chính sách đã “chạm” tới vùng khó, nhưng để “thấm” sâu và bền vững, cần chính sách mới, toàn diện, linh hoạt hơn và công bằng hơn. Khi đó, những lớp học nơi đại ngàn mới thật sự được nâng đỡ bằng một hệ thống đủ mạnh, không chỉ đứng vững trước thiên tai, mà còn bền bỉ đồng hành, là bệ đỡ vững chãi cho khát vọng tương lai của thế hệ trẻ.

THU TRANG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/xay-dung-nang-luc-chu-dong-ung-pho-thien-tai-post919921.html