15 năm hoạt động đối ngoại nghị viện, hồi ức và nhìn về tương lai: Bài 1: Đối ngoại nghị viện - từ trăn trở, manh nha đến triển khai và hoàn thiện dần
Lời Tòa soạn: Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (6/1/1946 - 6/1/2026), Báo ĐBND trân trọng giới thiệu loạt bài của GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Khóa X, XI về hoạt động đối ngoại nghị viện '15 năm hoạt động đối ngoại nghị viện, hồi ức và nhìn về tương lai'.
Ngay từ Khóa IX, tuy là đại biểu Quốc hội (ĐBQH) kiêm nhiệm, tôi vẫn không ngừng suy nghĩ về công tác đối ngoại nghị viện trong "bộ ba" đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước, đối ngoại nhân dân, với một câu hỏi: Đối ngoại nghị viện cần và có thể làm gì trong bối cảnh đất nước đang bị cấm vận ngặt nghèo?
Từ câu hỏi đối ngoại nghị viện cần và có thể làm gì trong bối cảnh đất nước đang bị cấm vận ngặt nghèo?
15 năm là ĐBQH, tôi là thành viên của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Ủy viên kiêm nhiệm Khóa IX, và Phó Chủ nhiệm chuyên trách Khóa X và Khóa XI, được phân công Trưởng Tiểu ban Kinh tế đối ngoạicủa Ủy ban, Chủ tịch Phân Ban Việt Nam trong Liên minh Nghị viện Pháp ngữ(APF). Về quan hệ song phương tôi được phân công ba khu vực địa lý Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latin. Tôi được Đại hội đồng APF bầu là Phó Chủ tịch của APF liên tục từ năm 1997 đến 2007.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tiếp Ban Chấp hành APF tại Phủ Chủ tịch, tháng 2/1996. Ảnh: Tư liệu
Tôi đến với công tác đối ngoại và đối ngoại nghị viện với một hành trang tích lũy được qua công tác thực tiễn. Đó là những năm tháng mà phong trào Việt kiều yêu nước ở Pháp có một nhiệm vụ trọng tâm là ra sức giải thích với nhân dân Pháp và các nước phương Tây, đặc biệt trong giới trí thức, chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; vận động bè bạn các nước ủng hộ nhân dân ta những gì Việt Nam cần và phù hợp với từng đối tượng.
Đó còn là những kinh nghiệm mà tôi tiếp thu được trong những năm tháng được phân công hỗ trợ hai đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam, rồi Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam.
Ngay từ Khóa IX, tuy là ĐBQH kiêm nhiệm, tôi vẫn không ngừng suy nghĩ về công tác đối ngoại nghị viện trong bộ ba đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước, đối ngoại nhân dân, với một câu hỏi: Đối ngoại nghị viện cần và có thể làm gì trong bối cảnh đất nước đang bị cấm vận ngặt nghèo?
Trăn trở này trở nên thường xuyên sau khi tại một kỳ họp của Quốc hội, lên đọc báo cáo thẩm tra của Ủy ban Đối ngoại, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Hoàng Bích Sơn lúc bấy giờ, từ bục diễn đàn giơ lên một trang giấy và nói: “Báo cáo của Ủy ban Đối ngoại hôm nay là một báo cáo “mini”. Chúng tôi không lặp lại những gì Quốc hội đã được nghe để không làm mất ngày giờ của nhau, chỉ nói những gì Ủy ban chúng tôi biết, đã làm và có ý kiến”.
Suy nghĩ càng thôi thúc khi năm 1996 tôi kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia tổ chức Hội nghị cấp cao lần thứ 7 các nước sử dụng tiếng Phápsẽ tổ chức tại Hà Nội tháng 11/1997. Qua công tác này hiện rõ dần khả năng kết hợp đối ngoại đa phương với song phương, và Chính phủ với Quốc hội trong đối ngoại Nhà nước.
Vào đầu Khóa X, tôi trình bày suy nghĩ và ý định triển khai công tác đối ngoại nghị viện với Chủ nhiệm Ủy ban Đỗ Văn Tài và Thường trực Ủy ban, và đề nghị đồng chí báo cáo với Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và xin phép được triển khai.
Xuất phát điểm là quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại của đất nước bao gồm ba bộ phận như đã nói trên đây. Trong đối ngoại nhà nước có ngoại giao của Chính phủ và đối ngoại của Quốc hội, cần có sự phối hợp hài hòa theo chức năng để hỗ trợ và phát huy lẫn nhau.
Mục tiêu cần đạt, từ đặc thù của Quốc hội và những quy định của Hiến pháp, là đối ngoại nghị viện đóng góp thiết thực vào việc hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Nghị viện các nước và thế giới, qua đó đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công việc cần triển khai bắt nguồn từ ba chức năng của Quốc hội là lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước, và từ đặc thù của đối ngoại nghị viện, vừa là đối ngoại nhà nước, vừa là đối ngoại nhân dân, và việc thực hiện là của cả Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, trong đó có Ủy ban Đối ngoại.
Cách đặt vấn đề như trên được thông qua, chúng tôi phấn khởi bắt tay vào triển khai với phương châm thiết thực, cụ thể, từng bước mở rộng và hoàn thiện nội hàm qua những kinh nghiệm được đúc kết.
Kết hợp song phương với đa phương để thêm sức cho đối ngoại nghị viện
Để triển khai các mảng công tác được phân công, đây không chỉ là một phương châm mà còn là sự cần thiết trong điều kiện các địa bàn tôi phụ trách trải rộng hầu khắp thế giới, ngân sách lại không thể chi cho những chuyến công tác xuyên châu lục khi mà mục tiêu chưa rõ, chỉ để khai phá, tìm hiểu tình hình.
Qua Liên minh quốc tế các nghị sĩ nói tiếng Pháp (AIPLF) rồi APF, Quốc hội Việt Nam đã đến được nhiều nước và vùng lãnh thổ: Ai Cập, Morocco, Algeria, Tuynidia, Mali, Niger, Bờ Biển Ngà, Senegal, Congo, Gabon, Burkina Faso, Cameroon, Madagascar, Reunion, Mauritius, New Caledonia, Guiana thuộc Pháp, Lebanon… và từ đó mở ra khả năng nối tiếp sang Brazil và Nam Mỹ, Vanuatu, New Zealand các đảo quốc ở Thái Bình Dương.

Phiên họp Ban Chấp hành AIPLF tại Quốc hội Việt Nam ở Hội trường Ba Đình, Hà Nội, tháng 2/1996. Ảnh: Tư liệu
Được Ngân hàng Thế giới mời tham gia một đoàn nghị sĩ 11 nước đến tìm hiểu và trao đổi với Nghị viện và Chính phủ Nicaragua về Chiến lược giảm nghèo của nước này, tôi có dịp đặt chân đến vùng Trung Mỹ Nicaragoa, Panama, vùng Caribe và từ đó nối tiếp tới Venuezuela, Chile.
Ở thời điểm đó, còn rất nhiều nước Quốc hội Việt Nam chưa có quan hệ. Ngoài việc mở rộng tầm hiểu biết của bản thân, các chuyến đi này gợi ra cho tôi ý nghĩ chuẩn bị để lãnh đạo Quốc hội đến thăm chính thức một số nước. Đó là khởi nguồn của các chuyến đi thăm chính thức của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đến các nước Bắc Phi tháng 12/2005, và Brazil, Argentina, Venezuela và Cuba tháng 3/2006.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An hội đàm với Chủ tịch Hạ viện Argentina ngày 10/3/2006. Ảnh: Tư liệu
Với Cộng đồng Pháp ngữ và Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ
Năm 1987, Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước tổ chức một hội nghị tổng kết giữa các bộ, ngành, viện, trường và các nhà khoa học Việt Nam với các đối tác Pháp, bao gồm Bộ Ngoại giao, các trường, viện, hội đoàn của các nhà khoa học Pháp, nhằm đánh giá 12 năm hợp tác giữa hai nước, tính từ lúc hai nước ký kết Hiệp định hợp tác liên Chính phủ về văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Thời điểm được lựa chọn là năm từ đó đến đầu thiên niên kỷ mới cũng đúng 12 năm. Hội nghị được các đại biểu tham dự đánh giá là bổ ích và thiết thực vì những mặt làm được và những mặt làm chưa tốt được phân tích rất khách quan, thẳng thắn trong tinh thần xây dựng.
Sau Hội nghị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch triệu tập tôi đến và thông báo quyết định Việt Nam tham gia trở lại Tổ chức hợp tác văn hóa và kỹ thuật (ACCT). Tôi được cử tham gia các cuộc họp Hội đồng quản trị và Hội nghị cấp Bộ trưởng của Tổ chức này với tư cách đại diện cho Chính phủ Việt Nam.
Vài ngày sau, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng cho gọi tôi lên và chỉ đạo thêm về công tác mới này. Chủ tịch nhấn mạnh ý nghĩa phá thế bao vây cấm vận Việt Nam lúc bấy giờ, và sự cần thiết đẩy mạnh hợp tác về khoa học kỹ thuật trong Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp. Đồng chí còn dặn dò tôi ba ý. Một là, trong ACCT, có nước giàu, có nước nghèo. Cần tranh thủ hợp tác với các nước đã phát triển, nhưng không được quên các nước châu Phi, vì nghĩa vụ và vì vốn cảm tình của lãnh đạo và nhân dân các nước này đối với Cách mạng Việt Nam. Hai là, cần kết hợp hợp tác đa phương (ACCT) với hợp tác song phương với các nước. Ba là, Việt Nam và các nước châu Phi đều là những nước nghèo, đang phát triển, hợp tác cần chọn nội dung thiết thực, cụ thể và thực hiện cho có hiệu quả.
Năm 1993, tôi được phân công làm Chủ tịch Phân ban Việt Nam trong AIPLF, thay bà Nguyễn Thị Bình sang nhận nhiệm vụ Phó Chủ tịch nước. Đây vừa là vinh dự, vừa là áp lực lớn đối với tôi, bởi lẽ phải hoạt động để tiếp nối xứng đáng với người tiền nhiệm mà uy tín trong Cộng đồng Pháp ngữ rất cao, và để thực hiện những lời căn dặn của Chủ tịch Phạm Văn Đồng.
Qua hoạt động của mình, Phân ban Việt Nam được bầu vào Ban Chấp hành AIPLF liên tục từ năm 1995, và vào cương vị Phó Chủ tịch, Ủy viên Ban Thường vụ Ban Chấp hành, liên tục từ 1997 cho đến hết nhiệm kỳ 2005 - 2007.
Những hoạt động đáng ghi nhớ nhất đã để lại những kỷ niệm tốt đẹp trong lòng bạn bè các Phân ban là các cuộc họp của Ban Chấp hành APF mà chúng ta đã tiếp đón tại Hà Nội tháng 2/1996 và tại Huế tháng 2/2005.
Cuộc họp tháng 2/1996 tại Hà Nội, ngoài tính chất là một hoạt động đầu tay của Phân ban, còn là một thí điểm cho việc tổ chức Hội nghị cấp cao 7 của Cộng đồng Pháp ngữ năm sau tại Hà Nội. Cuộc họp đã hoàn thành chương trình nghị sự mà Ban Chấp hành AIPLF đề ra; đã giúp cho các cơ quan và dư luận trong nước hiểu thêm về Cộng đồng Pháp ngữ. Các đại biểu tham dự cũng đã giữ lại những hình ảnh, mà mãi sau này họ vẫn nhắc đến, về đất nước và con người Việt Nam.
Cuộc họp tháng 1/2005 đã giới thiệu với các Ủy viên Ban Chấp hành APF về Cố đô Huế và hầm Đèo Hải Vân. Tại cuộc họp này, Ban Chấp hành APF đã ra quyết định thành lập Vùng châu Á - Thái Bình Dương của APF, một yêu cầu chính đáng mà các Phân ban Việt Nam, Lào và Campuchia đã đề đạt suốt 10 năm. Chuyến đi thăm đường hầm Đèo Hải Vân rất được các đại biểu hoan nghênh vì qua dự án này, họ hiểu biết được cách Việt Nam tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, từ khâu lựa chọn dự án đến tiếp thu công nghệ mới.
APF có 4 ủy ban thường trực: Ủy ban chính trị, Ủy ban các vấn đề nghị viện, Ủy ban văn hóa, giáo dục và truyền thông, Ủy ban Hợp tác và Phát triển. Một khó khăn của Phân ban Việt Nam là có không nhiều ĐBQH sử dụng tiếng Pháp. Tuy vậy, tham gia của Phân ban Việt Nam đã bám sát phương châm thiết thực và hiệu quả, với tinh thần “có nhận và có cho”, phù hợp với điều kiện thực tế của ta, và được các Phân ban ghi nhận.
Về châu Phi và Mỹ Latin
Giữa châu Phi, Mỹ Latin và Việt Nam, tuy cách xa về địa lý nhưng rất gần nhau về hoàn cảnh lịch sử và trên thực tế đã hỗ trợ cho nhau rất nhiều trong cuộc đấu tranh của mỗi nước giành lại độc lập, tự do, vì công lý và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đó là điểm tương đồng mà tôi đã cảm nhận được trong công tác được phân công với hai khu vực địa lý này.
“Điện Biên Phủ đã làm cho chủ nghĩa thực dân sụp đổ từng mảng tại châu Phi và tạo điều kiện cho chúng tôi giành lại độc lập”. “Chiến thắng 30/4/1975 đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi”. Các nhà lãnh đạo và nghị sĩ của nhiều nước châu Phi, của Angola, Nicaragua, Chile, Panama... đều khẳng định như thế.
Các thế hệ thanh niên hai châu lục này đã xuống đường ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, “đã trưởng thành với cách mạng Việt Nam” như các bạn đó (mà bây giờ một phần không nhỏ là các nhà lãnh đạo) hãnh diện nói.
Thật không sao nói hết những cảm xúc khi Đoàn ĐBQH gặp hai du kích quân Venuezuela là Carlos Argenis Martinez và Carlos Rey, đã tham gia bắt cóc Trung tá tình báo Mỹ Smolen tại Thủ đô Caracas để đổi lấy tự do cho anh Nguyễn Văn Trỗi.
Tham dự Hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững tại Johannesburg (Nam Phi) tháng 8/2002, cũng như Hội nghị Nghị sĩ về WTO tại Cancun (Mexico), tháng 9/2003, tôi cảm nhận sự gần gũi không phải chỉ liên quan đến quá khứ mà rất đương thời trước những vấn đề toàn cầu hiện nay.
Sự tương đồng, gần gũi không phải ngẫu nhiên mà theo tôi bắt nguồn từ hai câu nói cách nhau 100 năm “Ngọn cờ của chúng tôi là độc lập và tự do” của Simon Bolivia và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.












