Ám ảnh đuối nước
Mỗi năm, gần 2.000 trẻ tử vong do đuối nước tại Việt Nam. Dù đã được cảnh báo từ nhiều năm, tai nạn này vẫn tiếp tục lặp lại, đặt ra yêu cầu cấp thiết về những hành động cụ thể và hiệu quả hơn.

Rèn luyện kỹ năng bơi lội cho trẻ là một trong những biện pháp hạn chế tình trạng đuối nước. Ảnh: Xuân Hoa.
Số trẻ tử vong do đuối nước vẫn ở mức cao
Chỉ trong vòng 1 tháng qua, hàng loạt những ca phải nhập viện, thậm chí là tử vong do đuối nước đã được ghi nhận tại nhiều địa phương trên phạm vi cả nước. Tại Tuyên Quang, một học sinh lớp 8 đã tử vong khi tắm tại bãi soi tự phát ven sông Lô - nơi không có lực lượng cứu hộ cũng như biển cảnh báo. Ở Thanh Hóa, hai chị em ruột (5 và 8 tuổi) thiệt mạng sau khi xuống sông tắm mà không có người lớn đi cùng. Tại một khu dân cư ngoại thành Đà Nẵng, hai học sinh 14 và 15 tuổi tử vong khi bơi tại bãi biển chưa khai thác du lịch.
Thực tế, đây là một tình trạng báo động và đã được cảnh báo từ trước bởi các cơ quan chức năng, các bệnh viện, các chuyên gia y tế, giáo dục. Đó là thực trạng thương tâm về đuối nước ở trẻ nhỏ trong mùa hè.
Đuối nước thường gặp vào các tháng mùa hè do thời tiết nắng nóng, đồng thời, thời điểm này trẻ em cũng được nghỉ hè, nhiều gia đình cho trẻ đi bơi tại các bể bơi, đi du lịch biển; trẻ em ở các vùng quê thường có thói quen tắm sông, suối, ao hồ cùng bạn. Đuối nước có thể gặp trong nhiều hoàn cảnh như: trẻ không biết bơi vô tình ngã xuống ao hồ, sông suối, trẻ nhỏ khi đi bơi vô tình sang bể bơi người lớn, thậm chí có thể gặp ở những trẻ bơi rất giỏi nhưng bị chuột rút khi bơi, bạn bè nô đùa trong nước vô tình gây thương tích.
Điểm chung của các vụ việc trên là sự thiếu giám sát từ người lớn và không có điều kiện bảo đảm an toàn. Một số trẻ em tử vong khi chơi quanh ao hồ không được rào chắn. Số khác là do đuối sức, hoảng loạn, hoặc cố gắng cứu bạn khi không có kỹ năng.
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2021 số lượng người tử vong do đuối nước ở Việt Nam là 7.700 trường hợp. Còn theo dữ liệu của các cơ quan trong nước, số người tử vong do đuối nước ở Việt Nam năm 2021 là trên 4.000 ca. Tỷ lệ tử vong do đuối nước tại Việt Nam hiện vào khoảng 7,8 trên 100.000 dân - thuộc nhóm cao trong khu vực Tây Thái Bình Dương.
Trong đó, trẻ em vẫn là đối tượng tử vong do đuối nước chủ yếu tại nước ta với trung bình 2.000 ca mỗi năm, trong đó 16% ở nhóm 0-4 tuổi, có 24% trường hợp nằm ở nhóm tuổi từ 5-14 tuổi, và 14% trong nhóm từ 15-29 tuổi.
WHO đánh giá, với thực trạng đuối nước hiện nay, nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời và quyết liệt, hơn 7,2 triệu người trên toàn cầu, chủ yếu là trẻ em, có thể mất mạng vì đuối nước từ nay đến năm 2050.

Chăm sóc và điều trị bệnh nhi nguy kịch do đuối nước. Ảnh: BV Nhi Trung ương.
Nguyên nhân, lỗ hổng và giải quyết hệ thống
Dù Việt Nam đã có nhiều chương trình phòng chống đuối nước trẻ em, thực trạng thương vong mỗi dịp hè vẫn cho thấy hệ thống phòng ngừa còn nhiều khoảng trống. Từ nhận thức xã hội, kỹ năng ứng phó ban đầu, cho đến các điều kiện hạ tầng an toàn - mọi mắt xích đều tồn tại vấn đề.
Tại nhiều vùng nông thôn, ao hồ, mương nước vẫn xen kẽ khu dân cư mà không có hàng rào bảo vệ hay biển cảnh báo. Ở các khu nghỉ mát, khu vui chơi ven sông, biển, tình trạng thiếu nhân viên cứu hộ, thiếu phao cứu sinh vẫn phổ biến. Không ít cơ sở kinh doanh tổ chức các dịch vụ tắm mát tự phát mà không đăng ký, không được kiểm định điều kiện an toàn.
Về phía gia đình, không phải phụ huynh nào cũng có ý thức giám sát trẻ sát sao trong những chuyến đi chơi, hoặc trang bị cho con kỹ năng tự bảo vệ khi xuống nước. Không ít người lớn thậm chí chưa từng được hướng dẫn cách sơ cứu đuối nước đúng phương pháp - điều tối quan trọng để cứu sống nạn nhân trong những phút đầu tiên.
Theo PGS.TS Nguyễn Trọng An - nguyên Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ LĐTBXH cũ), đuối nước không thể xem là tai nạn ngẫu nhiên, mà là hệ quả từ những thiếu hụt kéo dài trong hệ thống bảo vệ trẻ em.
“Chúng ta cần nhìn nhận đuối nước như một vấn đề phát triển - nơi mọi chính sách xã hội, giáo dục, y tế, quy hoạch hạ tầng đều có vai trò” - ông An thẳng thắn.
Trong khi đó, việc phổ cập bơi cho học sinh - giải pháp đã được nhắc đến nhiều năm - vẫn chưa trở thành một phần bắt buộc trong chương trình giáo dục. Tại một số địa phương, các lớp dạy bơi cho trẻ miễn phí đã được triển khai thành công, song vẫn chưa có sự đồng bộ trên toàn quốc. Một vấn đề đặt ra là thiếu kinh phí để xây dựng bể bơi đạt chuẩn, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa. Các chuyên gia đề xuất hình thành quỹ hỗ trợ cộng đồng xây dựng bể bơi công cộng và tổ chức các lớp huấn luyện sơ cấp cứu cơ bản cho phụ huynh và giáo viên.
Nhiều chuyên gia cho rằng cần có một chương trình quốc gia về phòng, chống đuối nước trẻ em được xây dựng ở cấp luật, với trách nhiệm cụ thể giao cho từng ngành. Cơ quan quản lý nhà nước cũng cần yêu cầu các địa phương lập bản đồ điểm đen về đuối nước và kiểm tra định kỳ điều kiện an toàn khu dân cư có sông suối, ao hồ. Những khu vui chơi, bãi tắm, khu du lịch có yếu tố nước cần chịu kiểm tra an toàn định kỳ và không được phép hoạt động nếu không có nhân lực cứu hộ, trang thiết bị hỗ trợ cần thiết.
TS.BS Lê Văn Cường - Phó Giám đốc Sở Y tế Thanh Hóa, đại biểu Quốc hội khóa XV, cho rằng: “Nếu chỉ trông chờ vào tuyên truyền và tự nguyện thì mỗi mùa hè, chúng ta sẽ lại phải chứng kiến những vụ việc đau lòng.” Theo ông, các địa phương cần rà soát, kiểm tra điều kiện an toàn tại các điểm có nguy cơ đuối nước; đồng thời, giáo dục kỹ năng bơi và sơ cứu cần được đưa vào chương trình chính khóa ở bậc tiểu học. Bên cạnh đó, cần siết chặt điều kiện hoạt động đối với các bãi tắm tự phát, các khu vui chơi có yếu tố nước, đồng thời yêu cầu các cơ sở giáo dục có kế hoạch tổ chức các hoạt động hè có quản lý chặt chẽ. Chỉ khi trách nhiệm được cụ thể hóa và phân bổ rõ ràng, từ gia đình, nhà trường đến chính quyền địa phương, thì tai nạn đuối nước ở trẻ mới có thể được kiểm soát một cách bền vững.
“Đã đến lúc không thể tiếp tục xem phòng chống đuối nước là trách nhiệm riêng lẻ của từng địa phương. Những khu vui chơi, bãi tắm, khu du lịch có yếu tố nước cần chịu kiểm tra an toàn định kỳ và không được phép hoạt động nếu không có nhân lực cứu hộ, trang thiết bị hỗ trợ cần thiết. Cùng với đó, cần có chính sách đầu tư công cho việc xây dựng bể bơi cộng đồng ở vùng khó khăn, tổ chức lớp học bơi miễn phí trong dịp hè, và đưa kỹ năng sơ cứu cơ bản vào tập huấn định kỳ cho phụ huynh, giáo viên, cán bộ xã phường” - ông Cường chia sẻ.
Đuối nước không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là hồi chuông về trách nhiệm chung. Việc chậm trễ trong hoàn thiện chính sách và buông lỏng trách nhiệm giám sát chỉ khiến nguy cơ tái diễn mỗi mùa hè. Trẻ em không thể tự bảo vệ mình nếu xã hội không tạo ra các điều kiện đủ để bảo vệ các em.
ThS.BS Lê Nhật Cường - Viện Đào tạo và Nghiên cứu Sức khỏe Trẻ em, Bệnh viện Nhi Trung ương:
Cần sự vào cuộc của cả gia đình và cộng đồng trong việc phòng tránh tai nạn đuối nước ở trẻ em
Dù đã được các cơ quan chuyên môn và truyền thông liên tục cảnh báo, nhưng số ca tai nạn đuối nước mỗi năm vẫn gia tăng.
Để kịp thời ngăn chặn và hạn chế tối đa tình trạng đuối nước cũng như những sai lầm trong sơ cấp cứu trẻ bị nạn, cần có sự chung tay của cả gia đình và cộng đồng. Tại các hộ gia đình, những vật dụng chứa nước như xô, chậu, chum, vại cần được đậy kín nắp và đặt ngoài tầm với của trẻ nhỏ, bởi không ít trường hợp đuối nước thương tâm xảy ra chỉ vì các em ngã vào xô nước sâu mà không ai phát hiện kịp thời.
Ở các khu dân cư, ao, hồ, giếng khơi nên được rào chắn an toàn, không để trẻ có thể tự ý tiếp cận. Những khu vực bơi công cộng cần được thiết kế với độ sâu phù hợp theo từng nhóm tuổi, có trang bị đầy đủ phao cứu sinh, thiết bị cấp cứu và bố trí nhân viên cứu hộ đã qua đào tạo kỹ thuật chuyên môn. Người chăm sóc trẻ cần giám sát liên tục, không được lơ là dù chỉ trong thời gian ngắn.
Giáo dục kỹ năng phòng chống đuối nước cũng là nhiệm vụ cấp thiết, nên được triển khai sớm từ lứa tuổi tiểu học, thậm chí ngay từ lớp Một. Trẻ cần được học bơi một cách bài bản, đồng thời hiểu được nguyên tắc an toàn khi tiếp xúc với môi trường nước. Với các em lớn hơn, việc nhận diện khu vực nguy hiểm, biết cách từ chối tham gia các hoạt động tắm, chơi ở vùng nước không an toàn, không đùa nghịch khi đang bơi… là những kỹ năng sống quan trọng cần được giáo dục thường xuyên.
Song song với đó, cần tổ chức các chương trình truyền thông, phổ biến rộng rãi trong cộng đồng về phương pháp sơ cấp cứu đúng cách khi xảy ra đuối nước. Việc tổ chức lớp tập huấn hồi sức tim phổi cơ bản (CPR) cho người dân là biện pháp thiết thực để thay đổi thói quen sai lệch trong ứng cứu ban đầu - một yếu tố quyết định cơ hội sống sót và hồi phục của trẻ.
TS.BS Phan Hữu Phúc - Viện trưởng Viện Đào tạo và Nghiên cứu Sức khỏe Trẻ em, Bệnh viện Nhi Trung ương:
Chú trọng kỹ năng sơ cứu
Nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ bị đuối nước không phải do phổi đầy nước, mà chủ yếu là tổn thương não không hồi phục do thiếu oxy. Não bộ con người chỉ có thể chịu đựng tình trạng thiếu oxy trong vòng 4-5 phút. Nếu vượt qua ngưỡng thời gian này, khả năng tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề gần như không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc sơ cấp cứu ban đầu đúng cách, đúng thời điểm, đóng vai trò sống còn trong quá trình cứu trẻ đuối nước.
Một sai lầm phổ biến mà chúng tôi ghi nhận là hành động dốc ngược trẻ lên vai rồi chạy vòng quanh với mục đích “cho nôn hết nước”. Cách xử lý này hoàn toàn không đúng và có thể khiến dịch từ dạ dày trào lên đường hô hấp, gây tắc nghẽn, đồng thời làm chậm quá trình hồi sức tim phổi – vốn là bước can thiệp quan trọng nhất. Trong những phút đầu tiên, điều quan trọng không phải là “lấy nước ra khỏi phổi” mà là phải khôi phục tuần hoàn và hô hấp.
Các bước sơ cứu đuối nước được Hội Nhi khoa Việt Nam và Bệnh viện Nhi Trung ương khuyến cáo như sau:
Trước tiên, cần nhanh chóng gọi người hỗ trợ và liên hệ trung tâm cấp cứu 115. Đồng thời, đưa trẻ ra khỏi nước bằng cách an toàn nhất có thể. Ưu tiên phương pháp cứu gián tiếp bằng phao, dây, gậy hoặc vật nổi, tránh nhảy xuống nước nếu không được đào tạo bài bản. Việc cứu trực tiếp chỉ nên do người có kỹ năng bơi tốt và biết xử lý tình huống dưới nước thực hiện.
Sau khi đưa trẻ lên bờ, phải kiểm tra ngay dấu hiệu hô hấp. Nếu trẻ không còn thở hoặc không phản ứng, lập tức tiến hành hồi sức tim – phổi (CPR). Với trẻ nhỏ, người cấp cứu cần dùng miệng thổi ngạt phủ kín cả mũi và miệng trong 1–2 giây. Sau 5 nhịp thổi đầu tiên, tiến hành ép tim ngoài lồng ngực 30 lần, rồi tiếp tục chu kỳ 30 – 2 cho đến khi có phản ứng hoặc nhân viên y tế đến.
Lưu ý, nếu nghi ngờ có tổn thương cột sống cổ, cần đặt trẻ nằm ngửa trên nền cứng và cố định đầu - cổ - thân thành một khối thẳng hàng. Nếu không có chấn thương, cần nâng cằm, ngửa đầu để mở đường thở.
Sau khi trẻ tỉnh lại, cần đặt ở tư thế nằm nghiêng an toàn, giữ ấm, theo dõi sát tình trạng hô hấp và nhanh chóng chuyển đến cơ sở y tế gần nhất. Tuyệt đối không dừng sơ cứu khi chưa có dấu hiệu hồi phục rõ rệt, và không để trẻ tiếp tục nằm ngửa vì nguy cơ hít phải chất nôn rất cao.
Cấp cứu đúng trong vài phút đầu có thể cứu sống trẻ và quan trọng hơn, giảm thiểu tối đa tổn thương thần kinh. Đây là kỹ năng mà mỗi người lớn đều cần được trang bị một cách bài bản.
Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/am-anh-duoi-nuoc-10307603.html