Bài 3: Nữ tiến sĩ và bài toán tối ưu thuốc điều trị từ vật liệu y sinh

'Tò mò thôi' - là câu trả lời của nữ tiến sĩ Đặng Thị Lệ Hằng khi nói về đam mê nghiên cứu. Đúng với câu nói giới học thuật hay đùa vui: 'Càng học, càng thấy tổn thương', với chị Hằng cũng vậy, càng học và càng nghiên cứu, càng thấy biên độ của sự tò mò được mở ra rất nhiều, như lĩnh vực vật liệu y sinh chị đang dành tâm huyết nghiên cứu.

TS. Đặng Thị Lệ Hằng - Phó trưởng Phòng Công nghệ Vật liệu Y sinh, Viện Công nghệ tiên tiến, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là nhà khoa học nữ duy nhất trong 10 tài năng trẻ nhận Giải thưởng Khoa học Công nghệ Quả Cầu Vàng năm 2025. Nữ tiến sĩ ở tuổi 32 đã sở hữu 2 bằng độc quyền sáng chế quốc gia, 38 bài báo khoa học đã công bố trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục Q1, Q2.

Cú “bẻ lái” ngoạn mục

Nghỉ giữa chừng một ngành học yêu thích, rồi rẽ ngang sang học Công nghệ sinh học thời đại học, đó là một một cú “bẻ lái” của nữ tiến sĩ trẻ, mà đến giờ, khi nhắc lại, chị vẫn thấy bản thân thật can đảm.

“Chọn rẽ sang nghiên cứu y sinh, mình chỉ nghĩ đơn giản là muốn làm điều khiến mình thực sự hứng thú, dù biết sẽ phải bắt đầu lại từ đầu, chấp nhận nhiều rủi ro”, nữ tiến sĩ nói.

Ít ai ngờ, giữa những trang lý thuyết khô khan và chuỗi thí nghiệm phức tạp trong phòng lab, nữ tiến sĩ trẻ Đặng Thị Lệ Hằng lại "mê game". “Với nhiều người, game là sự giải trí thuần túy, nhưng với tôi, đó là một cách để giải trí sau những giờ vật lộn cùng hóa chất, thiết bị và những kết quả thí nghiệm đôi khi chẳng chịu nghe lời (cười)", chị Hằng chia sẻ.

Theo chị Hằng, có những giai đoạn, chị miệt mài suốt nhiều tuần liền trong phòng thí nghiệm, chỉ để tìm lời giải cho một phản ứng không diễn ra như dự đoán. "Khi thí nghiệm thất bại, tôi không bao giờ quên, cũng không nản chí, coi đó là cơ hội để nghỉ một nhịp. Mỗi lần như vậy, tôi rời khỏi mớ dữ liệu, chơi game, rồi lại có năng lượng để quay lại đọc tài liệu, suy nghĩ và thử lại”, chị Hằng chia sẻ.

Với nữ tiến sĩ trẻ, thất bại trong nghiên cứu không đáng sợ, điều đáng sợ là không biết vì sao mình thất bại. Chính vì vậy, mỗi lần “thua trận” trong phòng thí nghiệm, chị lại đối diện bằng tâm thế để bình tĩnh xem lại từng bước, đọc kỹ thí nghiệm như cách người chơi xem lại “replay” một ván game để tìm lỗi, rồi kiên trì “chơi lại” cho đến khi ra được kết quả mong muốn.

Vì vậy, nữ tiến sĩ trẻ đã dành cả thanh xuân để nghiên cứu, cải tiến, tối ưu thuốc điều trị từ vật liệu y sinh để giải quyết vấn đề khoảng cách liều hiệu quả và liều gây độc, thời gian lưu thông ngắn, số lần sử dụng thuốc liên tục để duy trì nồng độ hiệu lực…

 Nữ tiến sĩ Đặng Thị Lệ Hằng hiện công tác tại Viện Công nghệ tiên tiến, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Nữ tiến sĩ Đặng Thị Lệ Hằng hiện công tác tại Viện Công nghệ tiên tiến, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Theo chị Hằng, công nghệ vật liệu y sinh có thể tận dụng hóa hữu cơ để điều chỉnh, biến đổi vật liệu trên nền tảng đáp ứng sinh học, hoặc tạo các tương tác với môi trường vi mô để điều chỉnh các phản ứng sinh học, thay đổi theo sự kích thích của các tác nhân ngoại biên, hay các tác nhân nội tại trong cơ thể để điều chỉnh giải phóng thuốc… Từ đó tạo thành các vật liệu cho các thuốc, liệu pháp đang có trong thời gian chờ đợi các thuốc, liệu pháp mới tốt hơn, hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh y học hiện đại, vật liệu sinh học không còn chỉ đóng vai trò trung tính làm chất mang thuốc, trên cơ sở các sự hiểu biết về sinh học phân tử, cơ chế bệnh, vật liệu sinh học được thiết kế để tương tác chủ động với môi trường vi mô sinh học, từ đó điều hướng hoặc điều chỉnh phản ứng sinh học.

Các nước phát triển mạnh như Mỹ, Hàn Quốc, Úc… đang tập trung về thiết kế các vật liệu sinh học để nhắm mục tiêu và điều chỉnh các phản ứng của tế bào miễn dịch, tạo thành các vật liệu then chốt trong y học hiện đại, gồm điều trị ung thư, rối loạn miễn dịch, viêm mãn tính...

Phụ nữ, sao phải làm khó chính mình?

Theo chị Hằng, nếu nói phụ nữ khó khăn hơn trong nghiên cứu khoa học, có lẽ cũng chưa hẳn đúng. Cái khó không nằm ở những thí nghiệm hay công trình, mà ở những định kiến vẫn còn vương vất đâu đó ngoài kia.

“Mình học tiến sĩ, mà mỗi lần về quê, hàng xóm lại hỏi: Con gái học cao làm gì, kiếm tấm chồng cho xong... Câu nói tưởng như bông đùa, nhưng chứa trong đó cả một quan niệm cũ kỹ về vai trò của người phụ nữ, rằng học nhiều, phấn đấu nhiều là điều gì đó khác thường, thậm chí làm khó cho chính mình”, chị Hằng nhận định.

Thế nhưng, trong thực tế, sự chênh lệch giới tính trong khoa học đang dần được xóa nhòa. Ở nhiều viện nghiên cứu hay trường đại học, tỉ lệ nam - nữ trong các ngành khoa học tự nhiên, y sinh hay công nghệ thậm chí khá cân bằng. Có những phòng thí nghiệm, số nữ nghiên cứu viên còn nhiều hơn nam.

Cái “khó” thật sự không phải là chuyện được hay không được làm khoa học, mà là cách cân bằng giữa công việc và cuộc sống. Khi đã kết hôn, lập gia đình, phụ nữ thường phải gánh thêm những trách nhiệm ngoài phòng thí nghiệm.

Và đôi khi, họ phải chiến đấu với chính quan niệm “phụ nữ có thể làm tất cả”. Những người phụ nữ ấy, bằng sự bền bỉ và lặng lẽ, đang chứng minh rằng giới tính chưa bao giờ là giới hạn của tri thức.

 Chị Hằng theo đuổi hướng nghiên cứu phát triển nền tảng vật liệu sinh học thông minh có khả năng tương tác sinh học và phản hồi với vi môi trường bệnh lý.

Chị Hằng theo đuổi hướng nghiên cứu phát triển nền tảng vật liệu sinh học thông minh có khả năng tương tác sinh học và phản hồi với vi môi trường bệnh lý.

"Khi cơ hội việc làm còn hạn chế, việc đánh giá và so sánh giữa các nhà nghiên cứu, và định kiến về giới là điều không thể tránh khỏi. Có lẽ, thời gian vẫn là thước đo công bằng và chính xác nhất để thực sự biết được ai, công trình nào tạo ra ảnh hưởng lâu dài”, chị Hằng bộc bạch.

Với những nhà khoa học nữ trẻ, thời gian đôi khi là điều xa xỉ. Họ phải chứng minh giá trị của mình ngay lập tức trong những bản báo cáo, bài đăng quốc tế, hay mỗi lần bảo vệ trước hội đồng. Để được ghi nhận, họ phải chắc chắn trong từng dữ liệu, chặt chẽ trong từng nhận định.

 TS. Đặng Thị Lệ Hằng cùng cộng sự trong và ngoài nước.

TS. Đặng Thị Lệ Hằng cùng cộng sự trong và ngoài nước.

Từ cú “bẻ lái” táo bạo năm nào, đến những ngày miệt mài trong phòng thí nghiệm, chị Hằng đã đi một chặng đường dài, hàng đêm cặm cụi với dữ liệu… với một niềm tin rằng, khoa học không phụ người có lòng tâm huyết. Nữ tiến sĩ tin rằng, nếu đi đến cùng, những nỗ lực hôm nay sẽ góp phần tạo ra giá trị thật cho ngày mai.

TS. Đặng Thị Lệ Hằng sở hữu 2 bằng độc quyền sáng chế quốc gia, 22 bài báo khoa học đã công bố trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục Q1 (13 bài là tác giả chính), 16 bài báo khoa học đã công bố trên tạp chí khoa học quốc tế thuộc danh mục Q2 (4 bài là tác giả chính).

Chị cũng là tác giả của 2 bài báo khoa học đã công bố trên tạp chí khoa học trong nước (2 bài là tác giả chính), 3 sách chuyên khảo được NXB uy tín phát hành, 1 chương sách phục vụ đào tạo được NXB uy tín trên thế giới xuất bản.

Châu Linh

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/bai-3-nu-tien-si-va-bai-toan-toi-uu-thuoc-dieu-tri-tu-vat-lieu-y-sinh-post1784957.tpo