Bao giờ nông dân được công nhận là 'chuyên nghiệp' để tiếp cận nguồn lực riêng?
Người nông dân đang kỳ vọng sẽ có thêm chính sách riêng và tiếp cận nguồn lực riêng cho 'nông dân chuyên nghiệp', như ưu tiên vay vốn tín chấp với lãi suất ưu đãi để mở rộng sản xuất, ứng dụng giống mới, công nghệ mới, các dự án nông nghiệp xanh, được hỗ trợ chi phí mua bảo hiểm, chuyển giao công nghệ sản xuất theo chuỗi giá trị…Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là bao giờ nông dân được công nhận 'chuyên nghiệp'?
Được đặt biệt danh là lão nông triệu phú đô la hay “vua chuối”, ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, nói vui rằng bản thân xuất thân từ nông dân và làm riết cho tới nay, nếu phân cấp ra, tới bây giờ sẽ lên đến cấp “nông dân chuyên nghiệp”.
Đã “chuyên nghiệp” trên 50%?
Với kinh nghiệm làm nông lâu năm, theo đánh giá từ ông Huy, tiềm năng của nông dân Việt Nam hiện nay đã chuyên nghiệp được khoảng 50% trở lên. Nếu chia ra về ngành hàng, như ở ngành thủy sản, nông dân đã biết nuôi và bán ra chuyên nghiệp như thế nào so với trước đó, hoặc như ngành hàng lúa gạo, nông dân biết chọn giống để trồng và bán cho doanh nghiệp (DN) nào.

Cả nước hiện có trên 9,1 triệu hộ nông dân hoạt động trong ngành nông lâm thủy sản nhưng quy mô nhỏ lẻ và phân tán.
Hay như trồng cây ăn trái, hơn 50% nông dân cũng biết dự tính bán cho thị trường nào. Đơn cử là nông dân khi trồng chuối sẽ tính toán để bán cho thị trường Trung Quốc vào mùa nào và quan tâm đến việc làm sao để mở rộng thị trường.
Như chia sẻ của ông Huy tại một hội thảo khoa học tổ chức ở Tp.HCM hôm 24/9 để bàn về nông dân Việt Nam từ truyền thống cho đến chuyên nghiệp, điều quan trọng là cần làm sao để đào tạo, nâng cấp cho người nông dân khi bước sang ngưỡng chuyên nghiệp. Chính phủ cùng với Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang có những chương trình để đồng hành cùng “nông dân chuyên nghiệp” và “nông dân thông minh” trong bối cảnh đất nước vươn mình đổi mới.
Tuy vậy, như băn khoăn của vị giám đốc Công ty TNHH Huy Long An, trong “nông nghiệp chuyên nghiệp” hiện đang thiếu lực lượng quản trị rất nhiều, cho nên rất cần tăng cường đào tạo đội ngũ nhân lực nông nghiệp về mặt quản trị nhằm thích ứng tốt với chuyển đổi số trong nông nghiệp. Ngoài ra, nguồn vốn để nông dân đầu tư chuyển đổi công nghệ (như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số) cũng là một thách thức. Mặt khác, việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tận dụng phế phẩm trong nông nghiệp vẫn còn ách tắc.
Còn đứng ở góc nhìn của một chuyên gia lâu năm trong ngành nông nghiệp, PGs.Ts. Vũ Trọng Khải nhấn mạnh điều quan trọng trong bối cảnh hiện nay là làm thế nào để có được đội ngũ “nông dân chuyên nghiệp”. Thực tế cho thấy có những người làm nông nghiệp nhưng chưa chắc đã là nông dân mà là những “nhà đầu tư kinh doanh nông nghiệp”. Thực chất, nông dân là chủ trang trại gia đình, làm kinh tế nông vụ, coi nông nghiệp là kế sinh nhai chủ yếu.
Về nhận định “trên 50% nông dân là chuyên nghiệp” của ông Võ Quan Huy, theo PGs.Ts. Vũ Trọng Khải, là bởi vì những nông dân này sống bằng nông nghiệp là chính. Còn với những trường hợp chưa chuyên nghiệp, là vì bên cạnh nguồn thu từ nông nghiệp thì nông dân còn phải làm bất kỳ việc gì khác để tăng thêm thu nhập.
Như lưu ý của ông Khải, muốn trở thành nông dân chuyên nghiệp đòi hỏi phải tích tụ ruộng đất đủ lớn, trong khi khi kinh tế nông hộ chưa làm được điều này. Và muốn sống bằng nông nghiệp cần phải có “nông dân lớn”, đây là câu chuyện quan trọng có liên quan đến yếu tố chính sách.
“Về lâu dài rất cần đào tạo một đội ngũ nông dân chuyên nghiệp và nông dân thông minh (điều này khác với đào tạo kỹ sư nông nghiệp hay cán bộ quản lý nông nghiệp). Nếu không đào tạo nông dân (tức các chủ trang trại gia đình) đến nơi đến chốn, đúng người, đúng chỗ thì không biết đến bao giờ chúng ta mới có được đội ngũ nông dân được công nhận là chuyên nghiệp”, ông Khải nhấn mạnh.
Vị chuyên gia này cũng chỉ rõ vai trò quan trọng của khâu chính sách để giúp cho nông dân trở nên chuyên nghiệp. Đặc biệt các chính sách có liên quan đến đào tạo, ruộng đất và tài chính. Chẳng hạn trong vấn đề tài chính, nên có chính sách riêng đối với những nông dân, những hợp tác xã (HTX) tham gia vào chuỗi giá trị, có hợp đồng rõ ràng thì sẽ được cho vay tín chấp với lãi suất ưu đãi. Trong khi đó, một thách thức hiện nay là có những ngân hàng lại rất sợ mất vốn, sợ nợ khó đòi khi cho vay tín chấp.
“Điều quan trọng là phải có chính sách riêng cho nông dân chuyên nghiệp”, ông Khải bày tỏ.
Kỳ vọng có thêm chính sách riêng
Ngoài ra, nói thêm về vai trò của DN, HTX, tổ chức quốc tế trong việc phát triển “nông dân chuyên nghiệp” ở Việt Nam, Ts. Hoàng Mỹ Lan (Tổ chức GIZ) cho biết trong 5 năm trở lại đây, Tổ chức GIZ đã hỗ trợ cho hơn 30.000 nông dân, hơn 200 HTX và hơn 20 DN để tạo ra sự thay đổi khi tham gia chuỗi giá trị. Đơn cử như việc hỗ trợ nông dân giảm đầu vào, đạt tiêu chuẩn nhằm xuất khẩu vào thị trường EU. Bên cạnh đó, các nông dân còn được hỗ trợ giảm sử dụng nước, giảm phát thải khí nhà kính, giảm phân bón, tăng năng suất và tăng thời gian bảo quản.
“Như việc hỗ trợ tăng thời gian bảo quản đã giúp cho nông dân, HTX và DN xuất khẩu xoài sang những thị trường mới như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand. Nhờ đó thu nhập của người nông dân được tăng lên”, bà Lan chia sẻ.
Mặt khác, theo Ts. Lan, để nông dân trở nên chuyên nghiệp hơn, một trong những vấn đề mà họ cần làm là có được kỹ năng quản lý tài chính, kỹ năng nắm bắt cơ hội về đầu tư, hiểu được nhu cầu của thị trường, hiểu được việc làm thế nào để tránh những rủi ro, hiểu các phương thức canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu…
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ riêng và tiếp cận nguồn lực riêng cho “nông dân chuyên nghiệp” cũng là điều đáng để kỳ vọng. Giới chuyên gia cho rằng một khi nông dân được công nhận là “chuyên nghiệp” thì sẽ được ưu tiên vay vốn tín chấp với lãi suất ưu đãi để mở rộng sản xuất, ứng dụng giống mới, công nghệ mới, các dự án nông nghiệp xanh, giảm phát thải, tuần hoàn, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Hơn thế nữa, các “nông dân chuyên nghiệp” cũng nên được hỗ trợ chi phí mua bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Ngoài ra, họ cũng cần được lựa chọn tham gia thí điểm các chương trình khuyến nông, chuyển giao công nghệ, sản xuất theo chuỗi giá trị.
Tuy nhiên, câu hỏi bao giờ nông dân được công nhận là “chuyên nghiệp” vẫn đang chờ trả lời từ phía cơ quan quản lý và khâu chính sách. Điều này cần đặt trong bối cảnh các hộ dân tham gia sản xuất nông nghiệp đang chiếm tỷ trọng lớn (trên 65%) ở khu vực nông thôn (hiện nay dân số sống ở nông thôn nước ta chiếm khoảng 65%).
Không chỉ vậy, nhìn vào thực tế sẽ thấy số lượng hộ nông dân tuy lớn nhưng quy mô lại nhỏ. Cả nước hiện có trên 9,1 triệu hộ nông dân hoạt động trong ngành nông lâm thủy sản nhưng quy mô nhỏ lẻ và phân tán. Trong đó, đáng chú ý là đất sản xuất của các hộ nông dân Việt Nam hiện còn ở quy mô rất nhỏ, trung bình 2,8 thửa, diện tích mỗi thửa là 2.026,3m2 (số liệu khảo sát hồi năm 2022). Đáng lưu tâm là tuy số hộ nông dân có đa dạng nhưng hộ thuần nông chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ.