Bảo hiểm xe máy bắt buộc: cần chữa bệnh hình thức
Bảo hiểm xe máy bắt buộc là chính sách nhân văn nhưng đã bị 'hình thức hóa' vì khâu thực thi yếu. Điều cần thay đổi không phải là chính sách, mà là cách thực hiện. Khi DN minh bạch, người dân hiểu luật và cơ chế vận hành thuận lợi, bảo hiểm sẽ trở lại đúng bản chất bảo vệ người bị hại và ổn định trật tự xã hội.
Đây là quan điểm của luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS (thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội) chia sẻ với PV Báo Kinh tế & Đô thị.

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS.
Khâu thực thi vẫn là “điểm nghẽn” lớn nhất
Thưa luật sư, mục đích của việc bắt buộc mua bảo hiểm TNDS xe máy là gì và hướng tới bảo vệ ai?
- Mục tiêu chính của bảo hiểm TNDS bắt buộc không phải bảo vệ chiếc xe hay người lái, mà là bảo vệ nạn nhân - những người bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc tài sản do phương tiện cơ giới gây ra. Đây là chính sách nhân văn, thể hiện trách nhiệm cộng đồng.
Theo Điều 4 Nghị định 67/2023/NĐ-CP, mọi chủ xe cơ giới phải tham gia bảo hiểm TNDS, được quyền lựa chọn DN bảo hiểm, tạo cơ chế tài chính dự phòng để nạn nhân được bồi thường kịp thời, ngay cả khi người gây tai nạn không có khả năng chi trả. Mức bồi thường tối đa là 150 triệu đồng/người về sức khỏe, tính mạng, 50 triệu đồng về tài sản, đồng thời bảo vệ hành khách trên xe. Người gây tai nạn cũng được bảo vệ gián tiếp khi doanh nghiệp bảo hiểm chi trả thay, tránh rủi ro tài chính lớn.
Phí bảo hiểm chỉ từ 55.000 - 60.000 đồng/năm, nhưng giá trị bảo vệ nạn nhân và ổn định trật tự xã hội rất đáng kể. Luật cũng phân định rõ: bảo hiểm TNDS không bồi thường cho chủ xe hay chi phí điều trị của họ; nếu muốn, người điều khiển có thể mua thêm bảo hiểm tự nguyện.
Ý nghĩa như vậy, nhưng thực tế nhiều người vẫn gặp khó khăn khi làm thủ tục bồi thường, thậm chí không được chi trả. Vậy, nguyên nhân chính là gì, thưa luật sư?
- Theo tôi, nguyên nhân chủ yếu không nằm ở khung pháp lý mà ở khâu thực thi. Khung pháp lý hiện nay đã khá đầy đủ với Nghị định 67/2023/NĐ-CP, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 và Thông tư 22/2023/TT-BTC, quy định thủ tục, hồ sơ, thời hạn bồi thường. Doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng trong vòng 3 ngày với thiệt hại về người và giải quyết hồ sơ tối đa 15 ngày kể từ khi nhận đủ tài liệu hợp lệ.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều DN thiếu minh bạch, đặt ra thủ tục phức tạp, giải thích luật theo hướng có lợi cho mình, hoặc chậm trễ giám định, lập biên bản sơ sài, thậm chí từ chối chi trả. Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân cũng là một nguyên nhân: không biết phải báo công an và DN trong vòng 24 giờ, bỏ qua thủ tục hay tự giải quyết khiến hồ sơ bị từ chối. Khi cả DN, người dân và cơ quan quản lý chưa đồng bộ, bảo hiểm bắt buộc dễ biến thành “nghĩa vụ hình thức”, làm xói mòn niềm tin công chúng.
Một số ý kiến cho rằng bảo hiểm bắt buộc đang trở thành khoản phí hình thức. Quan điểm của ông thế nào?
- Tôi cho rằng, nhận định này không phải không có cơ sở. Bảo hiểm bắt buộc xe máy là hợp đồng dân sự giữa người tham gia và DN bảo hiểm, không phải “phí nộp cho Nhà nước”. Nhưng nhiều người mua chỉ vì nghĩa vụ, không quan tâm điều khoản hợp đồng, không lưu thông tin DN, không biết quy trình bồi thường. DN cũng chưa chủ động hướng dẫn, quy trình còn chậm, thiếu minh bạch, dẫn đến tâm lý “có cũng như không”.
Để khắc phục, Nhà nước cần giám sát chặt chẽ DN, yêu cầu công khai quy trình, tỷ lệ chi trả, số vụ từ chối, đồng thời xử lý nghiêm hành vi trái pháp luật. Người dân phải nhận thức bảo hiểm là “lá chắn” pháp lý, bảo vệ họ trước rủi ro. Khi hai phía cùng thực hiện đúng vai trò, bảo hiểm bắt buộc mới phát huy giá trị nhân văn.

Hình minh họa.
Cần khắc phục tình trạng “hình thức hóa”
Trong trường hợp thảo luận về việc bỏ quy định bắt buộc, theo ông, điều này có thể dẫn đến hệ quả pháp lý và xã hội gì? Và liệu có mô hình nào phù hợp hơn để vừa đảm bảo quyền lợi người dân, vừa hạn chế gánh nặng thủ tục
- Nếu việc bàn đến khả năng bỏ quy định bảo hiểm xe máy bắt buộc là một vấn đề rất hệ trọng, liên quan trực tiếp đến an sinh xã hội và trật tự pháp lý. Nếu thực hiện, đây sẽ là một bước lùi lớn, không chỉ tạo ra khoảng trống pháp lý trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà còn có thể gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho cả người gây tai nạn lẫn nạn nhân.
Việc bỏ bảo hiểm bắt buộc tạo khoảng trống pháp lý, nạn nhân có thể không được bồi thường, còn người gây tai nạn – nhất là thu nhập thấp – có nguy cơ phá sản. Hiện bảo hiểm TNDS giúp bồi thường tới 150 triệu đồng/người/vụ, giảm gánh nặng kinh tế, đảm bảo nhân đạo. Nếu bãi bỏ, nạn nhân “quyền có trên giấy, tiền không đến tay”, người gây tai nạn đối mặt nợ nần khổng lồ.
Theo tôi, vấn đề không phải chữ “bắt buộc”, mà là cách thực hiện. Thay vì bãi bỏ, cần nâng cấp bảo hiểm bắt buộc theo hướng minh bạch, hiện đại và thân thiện. Một mô hình phù hợp là bảo hiểm bắt buộc điện tử, tích hợp dữ liệu đăng ký, hợp đồng, hồ sơ bồi thường trên nền tảng số quốc gia, giúp người dân tra cứu, nộp hồ sơ dễ dàng và giám sát công khai. Ngoài ra, có thể xây dựng quỹ bồi thường chung cho các trường hợp người gây tai nạn không có bảo hiểm, tương tự mô hình tại Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Theo luật sư, nếu tiếp tục duy trì bảo hiểm xe máy bắt buộc, cần thay đổi những điểm gì để người dân thực sự được bảo vệ và có thể nhận bồi thường khi xảy ra tai nạn?
- Trước hết, cần “làm cho luật dễ thở hơn” đối với người dân. Dù Nghị định số 67/2023/NĐ-CP và Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 đã có những bước tiến trong quy định về bồi thường, nhưng vẫn tồn tại nhiều rào cản khiến người dân ngại yêu cầu quyền lợi. Do đó, cần đơn giản hóa hồ sơ đối với những vụ va chạm nhỏ, loại bỏ yêu cầu các giấy tờ không thật sự cần thiết, đồng thời quy định rõ “thời gian vàng” trong xử lý bồi thường. Ví dụ, DN bảo hiểm bắt buộc phải ra quyết định trong vòng 15 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Nếu quá hạn, cần áp dụng lãi suất phạt trên phần tiền chậm trả theo quy định, để bảo đảm quyền lợi chính đáng của người được bảo hiểm.
Thứ hai, phải chấn chỉnh hoạt động của các DN bảo hiểm, vì đây là “khâu nghẽn” lớn nhất trong thực tiễn. Các DN cần được buộc công khai đường dây nóng hoạt động 24/7, ghi âm và lưu trữ nội dung hướng dẫn để đảm bảo trách nhiệm hỗ trợ người dân. Đồng thời, nên bổ sung nghĩa vụ công khai tỷ lệ bồi thường, số vụ từ chối bồi thường và lý do cụ thể trên trang thông tin điện tử của DN, nhằm tăng cường tính minh bạch và để dư luận xã hội có thể giám sát. Khi người dân thấy sự minh bạch được bảo đảm, niềm tin với bảo hiểm mới có thể được khôi phục.
Thứ ba, không thể thiếu việc nâng cao nhận thức và kỹ năng pháp lý cho người dân. Nhà nước, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp tổ chức các chương trình phổ biến pháp luật về bảo hiểm tại địa phương, trên truyền hình, mạng xã hội hoặc tại điểm đăng ký xe. Người dân cần được hướng dẫn cụ thể về cách xử lý khi tai nạn xảy ra: bình tĩnh thu thập chứng cứ, gọi ngay cho đường dây nóng của DN bảo hiểm và kiên trì hoàn thiện hồ sơ để bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/bao-hiem-xe-may-bat-buoc-can-chua-benh-hinh-thuc.906027.html











