Bỏ kiểm định qua tổ chức KĐCLGD, trường phổ thông tiết kiệm thời gian, kinh phí

Kiểm định chất lượng theo quy định hiện nay đặt ra thách thức cho các trường trong việc cân bằng giữa yêu cầu hành chính với nhiệm vụ chuyên môn dạy và học.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố để lấy ý kiến từ nay đến hết ngày 9/7/2025.

Điểm mới đáng chú ý là việc không tiếp tục áp dụng kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên thông qua tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục như hiện hành. Thay vào đó, Dự thảo chuyển sang hình thức đánh giá chất lượng theo quy định của Bộ. Đây là một thay đổi mang tính bước ngoặt, nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà quản lý giáo dục.

Áp lực không nhỏ về thời gian và kinh phí để chuẩn bị kiểm định chất lượng giáo dục

Nhìn chung, quy định hiện nay không khả thi trên thực tế. Nếu áp dụng cơ chế kiểm định như đối với giáo dục đại học sẽ gây quá tải lớn, do số lượng trường mầm non, phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên lên tới hàng chục nghìn cơ sở (hơn 15.000 trường mầm non, 12.000 trường tiểu học, 10.700 trường trung học cơ sở, gần 3.000 trường trung học phổ thông...), trong khi hiện nay số tổ chức kiểm định đang hoạt động rất hạn chế, nhân lực kiểm định viên cũng không đủ đáp ứng yêu cầu. Hơn nữa, Thông tư của Bộ quy định chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục là 5 năm.

Với vai trò quản lý công tác chuyên môn và từng tham gia quá trình kiểm định chất lượng tại cơ sở, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Ngô Mậu Tình - Phó Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Lâm Thủy (huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) đánh giá, việc bỏ kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên thông qua tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và chuyển sang hình thức đánh giá chất lượng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là hướng đi hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.

Có thể thấy, việc áp dụng kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên thông qua tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục như hiện hành còn mang tính chất hình thức. Chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục là 5 năm, trong khi đó, quá trình chuẩn bị hồ sơ có rất nhiều hạng mục và tài liệu. Mỗi trường đều phải thành lập hội đồng tự đánh giá, tổ chức thu thập minh chứng, xử lý dữ liệu, lập báo cáo tự đánh giá cũng như công khai kết quả.

Đây là một quy trình không chỉ đòi hỏi nhiều thời gian mà còn yêu cầu sự phối hợp từ cả đội ngũ cán bộ, giáo viên – những người vốn dĩ đã phải đảm đương khối lượng công việc chuyên môn lớn và liên tục. Việc thực hiện thêm các thủ tục này có thể dẫn đến trình trạng quá tải công việc, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác giảng dạy và quản lý của các thầy cô. Điều này cũng đặt ra thách thức cho các trường trong việc cân bằng giữa yêu cầu hành chính và nhiệm vụ đào tạo cốt lõi.

 Ảnh minh họa: Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Lâm Thủy.

Ảnh minh họa: Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Lâm Thủy.

Thực tế cho thấy, nhiều trường phải kéo dài quy trình từ 7 đến 8 tuần để chuẩn bị cho một kỳ kiểm định. Riêng báo cáo tự đánh giá kiểm định chất lượng dài từ 80 đến 100 trang, và phải thực hiện qua nhiều vòng duyệt để thu thập minh chứng. Việc đội ngũ cán bộ, viên chức và giáo viên phải vừa đảm bảo công việc chuyên môn của mình, vừa kiêm nhiệm hoàn thành hồ sơ đánh giá, phân tích dữ liệu, di chuyển nhiều lần giữa các đơn vị cũng tạo nên áp lực không nhỏ về mặt thời gian và tốn kém kinh phí đáng kể, đặc biệt đối với nhiều trường học ở vùng sâu, vùng xa, khu vực khó khăn.

Việc kiểm định thông qua tổ chức kiểm định chất lượng phát sinh nhiều chi phí như hợp đồng đánh giá ngoài với tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, chi phí cho thành viên đoàn đánh giá ngoài, tổ chức tập huấn, chuyên môn, nghiệp vụ cho các đơn vị, cá nhân thực hiện công tác tự đánh giá,… Tuy nhiên, đa số là cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên công lập, không có quyền tự chủ tài chính như cơ sở giáo dục đại học, nên rất khó đảm đương nguồn kinh phí cho hoạt động này.

Ngoài ra, một số nội dung tiêu chí được yêu cầu trong quá trình kiểm định chỉ mang tính thủ tục, chưa thực sự khoa học, phản ánh hiệu quả thực chất và liên quan trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Mặt khác, sự chênh lệch về điều kiện vật chất giữa các trường trên cả nước là rất lớn nên việc áp dụng một bộ tiêu chuẩn chung cho tất cả các trường là chưa phù hợp.

Nếu giữ nguyên cách làm cũ, nhiều trường sẽ không đạt chuẩn chỉ vì những tiêu chí hình thức, trong khi một số trường hợp khác có thể lập hồ sơ kiểm định với tâm lý đối phó, chiếu lệ, chủ yếu chỉ để đáp ứng yêu cầu của kỳ đánh giá thay vì phản ánh trung thực hiệu quả cốt lõi và toàn diện của chất lượng giáo dục.

Theo thầy Ngô Mậu Tình, trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển sang các hình thức đánh giá linh hoạt, tinh gọn và tiết kiệm là xu hướng thích hợp, quan trọng nhất là vẫn bảo đảm mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, không chỉ phản ánh đơn thuần qua hồ sơ hay thủ tục hành chính, mà cần thể hiện một cách thực chất qua năng lực và phẩm chất của người học. Đó là những giá trị được hình thành và bồi đắp trong suốt quá trình giáo dục.

Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách rõ ràng, minh bạch trong kiểm định chất lượng

Đồng tình với ý kiến trên, thầy Nguyễn Văn Hùng - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Minh Đài (huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ) cho rằng, quỹ thời gian dành cho công tác tự đánh giá của các thành viên Hội đồng tại nhiều trường còn hạn chế, do đội ngũ các thầy cô đồng thời phải đảm nhiệm khối lượng lớn công việc chuyên môn. Song, chế độ dành cho thành viên hội đồng tự đánh giá còn thấp, kinh phí phục vụ cho hoạt động kiểm định cũng eo hẹp.

Bên cạnh đó, việc nắm bắt nội hàm của các tiêu chí, tiêu chuẩn còn mang tính hình thức, chưa thật sự sâu sát bản chất vì hầu hết các hội đồng tự đánh giá của các trường hiện nay chưa được tập huấn bài bản. Vì vậy dẫn đến quá trình khi mô tả, phân tích điểm mạnh, điểm yếu và đề xuất giải pháp có thể chưa sát với thực tế, còn chung chung.

Một số nhóm viết báo cáo tự đánh giá còn thiếu kinh nghiệm, chưa được tập huấn bồi dưỡng các kỹ thuật thu thập, xử lý thông tin, minh chứng, thiếu phối hợp giữa các nhóm trong quá trình tự đánh giá.

Sau khi đoàn đánh giá ngoài chỉ ra các định hướng cải tiến, nhưng phần lớn các đơn vị chưa chủ động được về nguồn lực, bao gồm cả nhân lực và vật lực, ngân sách tài chính. Do đó, dù đã xác định được điểm yếu ở một số tiêu chí, tiêu chuẩn nhưng việc cải thiện vẫn chưa thể thực hiện ngay.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, thầy Nguyễn Minh Đạo - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Lam Kinh (huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) cho hay: Thực tế tại một số cơ sở giáo dục, hoạt động tự đánh giá còn mang tính hình thức, đối phó. Nhiều thành viên trong hội đồng tự đánh giá đều là cán bộ, giáo viên, nhân viên kiêm nhiệm nhiều công việc tại trường, bận rộn với công tác giảng dạy và quản lý nên chưa thể dành đủ thời gian, tâm sức cho hoạt động tự đánh giá vốn đã có rất nhiều thủ tục và công đoạn trong quy trình.

Nhằm hướng tới mục tiêu phát triển ổn định hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục, thầy Nguyễn Minh Đạo đánh giá cao việc Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các quy định đánh giá chất lượng đối với cơ sở giáo dục phổ thông là hướng đi đúng đắn. Đồng thời cũng cho biết, một trong những yếu tố then chốt là hoàn thiện cơ chế, chính sách, đặc biệt là cơ chế khen thưởng và xử phạt rõ ràng, minh bạch trong lĩnh vực đảm bảo kiểm định chất lượng.

Cụ thể, đề xuất rằng cần có chính sách khuyến khích các cơ sở giáo dục thực hiện tốt công tác kiểm định, đồng thời kiên quyết xử lý những đơn vị, chương trình đào tạo không đạt chất lượng. Việc tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của đánh giá chất lượng giáo dục đối với cán bộ quản lý, giáo viên cũng là điều cần thiết, góp phần thúc đẩy sự chuyển biến tích cực trong toàn hệ thống.

Đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ như coi trọng công tác sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá thực chất, rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời của các cơ sở giáo dục cũng là nhiệm vụ cần thiết. Việc tự thanh kiểm tra định kỳ, giám sát linh hoạt và chú trọng đến chất lượng thực tế sẽ mang lại chất lượng hiệu quả hơn so với các đợt kiểm định thông qua tổ chức bên ngoài. Các cơ sở giáo dục cần được hướng dẫn rà soát những tiêu chí, chỉ số theo quy định của Bộ, từ đó xây dựng lộ trình nâng cao mức độ đáp ứng các chuẩn mực chất lượng giáo dục.

Hoạt động đánh giá chất lượng giáo dục là cơ hội quan trọng để các nhà trường tiến hành nhìn lại toàn diện, bài bản và có hệ thống mọi mặt công tác giáo dục trong suốt năm học. Dựa trên bộ tiêu chí đánh giá rõ ràng, thống nhất do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, mỗi cơ sở giáo dục có thể xác định chính xác vị trí hiện tại của mình trên bản đồ chất lượng giáo dục quốc gia. Từ đó, nhà trường có cơ sở để đề ra mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện thực tiễn của đơn vị.

 Ảnh minh họa: C.V.

Ảnh minh họa: C.V.

Thông qua công tác đánh giá chất lượng theo quy định của Bộ, các trường có thể nhận diện rõ ràng những điểm mạnh cần tiếp tục phát huy, đồng thời chỉ ra các hạn chế, yếu điểm cần khắc phục. Trên nền tảng đó, nhà trường có thể xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng một cách cụ thể, có lộ trình và giải pháp khả thi.

Một lợi ích thiết thực khác không thể không nhắc tới là quá trình đánh giá chất lượng cũng mở ra điều kiện kết nối để nhà trường thu hút sự quan tâm, đồng hành và hỗ trợ tích cực hơn từ cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như cộng đồng xã hội. Đây là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong phát triển giáo dục nhà trường.

Đặc biệt, để bảo đảm tính minh bạch, khách quan trong công tác đánh giá chất lượng, cần tạo điều kiện để phụ huynh, học sinh và cộng đồng xã hội được cùng tham gia giám sát kết quả đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục. Việc công khai các báo cáo tự đánh giá, cũng như kế hoạch cải tiến chất lượng sẽ giúp nâng cao trách nhiệm giải trình của nhà trường, đồng thời tạo ra động lực cải tiến thực chất từ chính nhu cầu và kỳ vọng của người học và xã hội.

Sự tham gia tích cực của các lực lượng này không chỉ góp phần phát hiện những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá trình đánh giá, mà còn thúc đẩy tính dân chủ, công bằng và công khai trong hoạt động giáo dục. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng niềm tin xã hội vào hệ thống giáo dục nói chung và từng cơ sở giáo dục nói riêng.

Song song với đó, công tác thanh tra, kiểm tra cần được triển khai một cách nghiêm túc, khoa học. Điều này sẽ kịp thời phát hiện và xử lý các biểu hiện hình thức, đối phó hoặc sai phạm trong đánh giá chất lượng, tạo nên một hệ thống giám sát nhiều chiều, giúp nâng cao độ tin cậy của kết quả kiểm định, đồng thời thúc đẩy các cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng một cách bền vững và có trách nhiệm.

Lưu Diễm

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/bo-kiem-dinh-qua-to-chuc-kdclgd-truong-pho-thong-tiet-kiem-thoi-gian-kinh-phi-post251878.gd