Các bệnh hen, béo phì, tiểu đường tuýp 1, rối loạn chuyển hóa... ở trẻ em Việt Nam tăng

Hệ thống y tế nói chung và ngành nhi khoa nói riêng đang bước vào giai đoạn điều chỉnh quan trọng để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của mô hình bệnh tật, xu hướng dân số và yêu cầu phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả và bền vững...

Thực tế này đòi hỏi công tác chỉ đạo tuyến phải chuyển mình từ việc hỗ trợ kỹ thuật đơn thuần sang tư duy quản trị hệ thống toàn diện.

GS.TS Trần Minh Điển - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam đã nhấn mạnh những thông tin này tại hội nghị Chỉ đạo tuyến Nhi khoa năm 2025, nhằm thảo luận các định hướng chiến lược cho giai đoạn 2026 – 2030 diễn ra ngày 10/12 tại Hà Nội.

GS.TS Trần Minh Điển - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam phát biểu.

GS.TS Trần Minh Điển - Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam phát biểu.

Mô hình bệnh tật ở trẻ nhiều thay đổi

Chia sẻ thông tin về mô hình bệnh tật của trẻ em, GS.TS Trần Minh Điển cho biết, bệnh truyền nhiễm giảm dần nhờ tiêm chủng đẩy mạnh, trong khi bệnh không lây nhiễm, mạn tính (hen, béo phì, tiểu đường tuýp 1, rối loạn chuyển hóa...) gia tăng;

Đồng thời tăng các bệnh về rối loạn phát triển - tự kỷ, chậm nói, chậm phát triển trí tuệ; Bệnh lý sơ sinh vẫn chiếm tỷ lệ cao tại tuyến trung ương, do chất lượng chăm sóc sơ sinh chưa đồng đều.

Cùng đó tình trạng trẻ nhập viện vì tai nạn thương tích, đặc biệt là ngộ độc, đuối nước, tai nạn giao thông ở trẻ lớn tăng;

GS.TS Trần Minh Điển cũng cho biết, sau dịch COVID-19, mô hình dịch bệnh của trẻ nổi lên vấn đề sức khỏe tâm thần như tâm lý học đường, stress, trầm cảm ở trẻ vị thành niên...

"Thực tế này cho thấy trong 5 năm tới, chúng ta cần chuyển từ mô hình chữa bệnh cấp tính sang mô hình quản lý bệnh mạn - chăm sóc liên tục - hỗ trợ nhiều chiều"- GS.TS Trần Minh Điển nói.

Phân cấp quản lý bệnh không lây nhiễm để giảm tải cho tuyến trên

Về năng lực cấp cứu - hồi sức - sơ sinh, kiểm soát bệnh lây nhiễm, GS.TS Trần Minh Điển cho biết, hiện nay gần 100% tuyến cơ sở có khả năng phát hiện, xử trí bước đầu ca bệnh cấp tính, ca bệnh lây nhiễm; 92,3% bệnh viện tuyến tỉnh có khả năng phân tầng điều trị khi có dịch bùng phát; 96,2% bệnh viện có đội hồi sức nhi khoa trực 24/7; 65,4% có thể thành lập đội phản ứng nhanh cấp vùng.

Tuy nhiên, GS.TS Trần Minh Điển cũng nhấn mạnh, nhiều tỉnh miền núi phía Bắc thiếu trang thiết bị, nhân lực, hệ thống liên lạc (chưa có Telehealth), gặp khó khăn khi hỗ trợ từ xa.

Về chuyên khoa hồi sức – cấp cứu – sơ sinh, các đại biểu thẳng thắn nhìn nhận khoảng trống y tế tại vùng sâu vùng xa. Giải pháp đưa ra là cần phổ cập siêu âm tại giường, các kỹ thuật cao chỉ triển khai khi đã vững cơ bản, có nhu cầu thực tế và lộ trình rõ ràng, đồng thời lấp đầy "lỗ hổng" trong chăm sóc trẻ sơ sinh non/cực non sau hồi sức; tăng cường liên kết Sản – Nhi; chuyển tuyến an toàn và hội chẩn từ xa.

Về chuyên khoa ngoại nhi, trước thực trạng thiếu nhân lực và trang thiết bị chuyên sâu, giải pháp đào tạo "cầm tay chỉ việc", tập trung đào tạo theo từng mặt bệnh cụ thể được thống nhất cao.

Về bệnh mạn tính và rối loạn phát triển ở trẻ em, các đại biểu thống nhất phương án phân cấp quản lý để giảm tải cho tuyến trên, giúp người bệnh tiếp cận dịch vụ thuận tiện nhất ngay tại địa phương.

Mô hình bệnh tật ở trẻ em Việt Nam có nhiều thay đổi, bệnh truyền nhiễm giảm dần nhờ tiêm chủng đẩy mạnh, trong khi bệnh không lây nhiễm, mạn tính (hen, béo phì, tiểu đường tuýp 1, rối loạn chuyển hóa...) gia tăng.

Mô hình bệnh tật ở trẻ em Việt Nam có nhiều thay đổi, bệnh truyền nhiễm giảm dần nhờ tiêm chủng đẩy mạnh, trong khi bệnh không lây nhiễm, mạn tính (hen, béo phì, tiểu đường tuýp 1, rối loạn chuyển hóa...) gia tăng.

Đặc biệt, quản lý kinh tế - y tế và tự chủ bệnh viện, khuyến nghị đưa ra là các bệnh viện cần chủ động xây dựng cơ cấu giá dịch vụ, ứng dụng Big Data để tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, các bệnh viện cũng cho rằng cần kiến nghị cơ chế đặc thù riêng cho chuyên ngành nhi về giá dịch vụ và chế độ đãi ngộ, tách biệt với mô hình bệnh viện người lớn.

Chuyển từ "giữ bệnh an toàn" sang "chăm sóc phát triển toàn diện" cho trẻ

Thông tin tại hội nghị cho thấy, để chuẩn bị cho giai đoạn 2026 – 2030, Bệnh viện Nhi Trung ương đã tiến hành khảo sát quy mô lớn trên 27 bệnh viện thuộc 3 vùng đồng bằng, trung du và miền núi, tập trung vào 4 trụ cột: Năng lực cấp cứu hồi sức sơ sinh, kiểm soát bệnh lây nhiễm; Chăm sóc bệnh mãn tính, rối loạn phát triển và phục hồi chức năng; Ngoại nhi và năng lực phẫu thuật; Tự chủ tài chính và quản trị điều hành.

Các bệnh viện cần tự đánh giá lại mô hình bệnh tật của chính đơn vị mình (bệnh lý cấp tính, mạn tính hay ngoại khoa) để đầu tư, bố đầy đủ nguồn lực hợp lý; Đẩy mạnh ứng dụng quản lý số để tiết kiệm nguồn lực; mở rộng các dịch vụ như tâm lý, tâm thần, phục hồi chức năng; xây dựng quy trình, gói kỹ thuật chuyên sâu trình Sở Y tế phê duyệt để có cơ sở thu phí; tách bạch rõ giữa bảo hiểm y tế và dịch vụ theo yêu cầu.

"Mục tiêu cụ thể của hệ thống nhi khoa hướng đến giảm tỷ lệ tử vong trẻ <1 tuổi và tử vong trong 24h nhập viện tại vùng khó khăn; Phát triển chuyên môn sâu tại tuyến tỉnh, hỗ trợ hiệu quả cho cộng đồng; Kiểm soát tốt một số bệnh không lây nhiễm phổ biến tại tuyến tỉnh; Ứng dụng công nghệ - chuyển đổi số để kết nối, giảm tải tuyến trên... để thực hiện tốt Nghị quyết 72/NQ-TW, xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em"- GS.TS Trần Minh Điển nói.

GS.TS Trần Minh Điển khẳng định Bệnh viện Nhi Trung ương sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển từng chuyên ngành, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng phần mềm khám chữa bệnh. Phòng Chỉ đạo tuyến của bệnh viện sẽ tiếp nhận nhu cầu từ các đơn vị để bố trí đoàn hỗ trợ và triển khai các hợp tác cụ thể.

GS Điển bày tỏ tin tưởng, với định hướng đúng và đầu tư có mục tiêu, hệ thống nhi khoa miền Bắc hoàn toàn có thể chuyển từ "giữ bệnh an toàn" sang "chăm sóc phát triển toàn diện" cho trẻ em giai đoạn 2026-2030.

Ông Đinh Anh Tuấn – Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em phát biểu.

Ông Đinh Anh Tuấn – Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Y tế cho biết trong 30 năm qua, chuyên ngành nhi khoa Việt Nam đã đạt những thành tựu đáng tự hào như tỷ lệ tử vong trẻ em giảm 4 lần, tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm xuống mức dưới 10%. Kết quả này là minh chứng rõ nét cho vai trò then chốt của công tác chỉ đạo tuyến.

"Trong bối cảnh mới, công tác chỉ đạo tuyến không chỉ dừng ở hỗ trợ kỹ thuật mà còn mở rộng sang quy hoạch ngành, đào tạo nhân lực và xây dựng hướng dẫn chuyên môn.

Bộ Y tế kỳ vọng Bệnh viện Nhi Trung ương tiếp tục dẫn dắt hệ thống, phát triển kỹ thuật chuyên sâu, song hành cùng chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đảm bảo mọi trẻ em đều được hưởng dịch vụ y tế tốt nhất"- ông Đinh Anh Tuấn nói.

Thái Bình/ Ảnh:

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/cac-benh-hen-beo-phi-tieu-duong-tuyp-1-roi-loan-chuyen-hoa-o-tre-em-viet-nam-tang-169251211005204736.htm