Cần thiết lập cơ chế đảm bảo đầu tư cho các dự án điện gió ngoài khơi tiên phong
Các chuyên gia quốc tế, nhà khoa học trong nước tham dự Hội thảo 'Thể chế, quy hoạch - Cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh' đều cho rằng Việt Nam cần sớm hoàn thiện khung pháp lý phát triển điện gió ngoài khơi, đặc biệt là có cơ chế hỗ trợ tài chính và đảm bảo đầu tư cho các dự án tiên phong.
Bà Maya Malik, Ngân hàng Thế giới (World Bank) trao đổi về phương pháp lập quy hoạch không gian biển dựa trên nền tảng dữ liệu không gian và đánh giá đa chiều: kỹ thuật, môi trường, xã hội và kinh tế, cho thấy "Vùng Phát triển" được định nghĩa là những khu vực đủ điều kiện kỹ thuật để phát triển điện gió ngoài khơi; "Lô Phát triển" là những vùng biển có chi phí điện gió hấp dẫn nhất và ít xung đột nhất về môi trường - xã hội.

Báo cáo chuyên đề của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia
Dựa trên các phân tích nói trên, Ngân hàng Thế giới đã xây dựng 2 kịch bản phát triển đến năm 2030 và 2040: Đến năm 2030, tập trung triển khai 5-6 GW điện gió ngoài khơi tại các khu vực có hạ tầng thuận lợi, tốc độ gió cao và độ sâu phù hợp với móng cố định, như Bạc Liêu, Bến Tre, Ninh Thuận; Đến năm 2040, mở rộng lên 15-20 GW, bao gồm các dự án tua-bin nổi ở khu vực biển sâu như ngoài khơi Bình Thuận, Phú Yên, hoặc phía Nam vịnh Bắc Bộ.
Các kịch bản này đồng thời đóng vai trò như cơ sở định hướng cho Quy hoạch không gian biển quốc gia, góp phần quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên vùng biển Việt Nam.
Đại diện World Bank cũng cho biết đã huy động 3 triệu USD tài trợ không hoàn lại để triển khai các khảo sát dài hạn phục vụ cho việc đo gió, khảo sát môi trường và xã hội. Các hoạt động này tạo nền tảng kỹ thuật vững chắc cho các nhà đầu tư tư nhân trong tương lai, đồng thời giảm thiểu rủi ro phát sinh trong quá trình cấp phép và triển khai.

Bãi cảng thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại Trung tâm Công nghiệp Năng lượng và Hậu cần Kỹ thuật PTSC
Chia sẻ thông tin cụ thể về nghiên cứu tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, ông Nguyễn Bá Thủy, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia cho biết, vùng biển Việt Nam có điều kiện gió ngoài khơi thuộc loại mạnh và ổn định bậc nhất khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là khu vực duyên hải miền Trung và Nam Bộ.
Kết quả nghiên cứu của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia về tốc độ gió cho thấy, có những khu vực ngoài khơi Việt Nam đạt tốc độ gió trung bình hàng năm >7 m/s - ngưỡng lý tưởng để phát triển điện gió. Ngoài ra, các vùng biển có độ sâu dưới 50m phù hợp với công nghệ móng cố định, trong khi vùng có độ sâu từ 50-1.000 m mở ra tiềm năng lớn cho công nghệ tua-bin gió nổi.
Nghiên cứu của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia cho thấy, tiềm năng điện gió ven bờ mỗi năm của Việt Nam là 57,8 GW và điện gió ngoài khơi là 1.068 GW. Các tỉnh có tiềm năng ven bờ nổi bật gồm: Bạc Liêu - Cà Mau chiếm gần 30% tổng tiềm năng ven bờ (trên 16 GW); Ninh Thuận - Bình Thuận có tổng cộng trên 24 GW, tập trung tại vùng ven các huyện Ninh Phước, Tuy Phong; Quảng Trị - Thừa Thiên Huế có tiềm năng nhỏ hơn nhưng ổn định về tốc độ gió vào mùa đông; Đồng bằng Bắc Bộ có khoảng 0,17 GW.

Ông Stuart Livesey, Trưởng đại diện Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) Đan Mạch tại Việt Nam khuyến nghị Việt Nam cần sớm hành động, hoàn thiện khung pháp lý để đạt mục tiêu đề về điện gió ngoài khơi đặt ra trong Quy hoạch điện VIII đối với quốc gia.
Để hiện thực hóa tiềm năng điện gió ngoài khơi được xác định, World Bank và Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia đã đề xuất hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cho phát triển điện gió ngoài khơi, đặc biệt về quy hoạch không gian biển, cơ chế cấp phép, đấu thầu và giá mua điện. Đẩy nhanh việc tổ chức các khảo sát sơ cấp, bao gồm đo gió ngoài khơi, địa chất đáy biển và đánh giá tác động môi trường - xã hội ở các "Vùng Phát triển".
Kiến nghị cũng đề cập thiết lập cơ chế hỗ trợ tài chính và đảm bảo đầu tư cho các dự án tiên phong, đặc biệt với các dự án có công nghệ nổi và chi phí đầu tư cao. Tăng cường phối hợp liên ngành và tham vấn các bên liên quan trong suốt quá trình quy hoạch và phát triển dự án, nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng và bền vững.
Chia sẻ kinh nghiệm phát triển điện gió ngoài khơi quốc tế, ông Stuart Livesey, Trưởng đại diện Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) Đan Mạch tại Việt Nam nhấn mạnh vấn đề thời gian là quan trọng nhất của các dự án điện gió ngoài khơi, ít nhất mất từ 6 năm triển khai trở lên. Do đó, ông khuyến nghị Việt Nam cần sớm hành động, hoàn thiện khung pháp lý để đạt mục tiêu đề ra trong Quy hoạch điện VIII đối với quốc gia. Tốc độ có thể được đẩy nhanh nhờ ý chí của Chính phủ.
Với tiềm năng kỹ thuật thuộc nhóm hàng đầu châu Á, điện gió ngoài khơi là một trụ cột quan trọng trong hành trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam. Những nỗ lực hợp tác giữa Chính phủ và các đối tác quốc tế sẽ tạo dựng nền móng quy hoạch bài bản, khoa học và minh bạch cho ngành công nghiệp này.
Mỗi 1 USD đầu tư vào điện gió ngoài khơi có thể tạo ra lợi ích tới 17 USD
Đây là thông tin được TS Dư Văn Toán, Viện khoa học môi trường, biển và hải đảo chia sẻ tại Hội thảo. Kinh tế biển đang nổi lên như một hướng đi chiến lược, thu hút dòng vốn đầu tư toàn cầu. Báo cáo "Tương lai Đại dương 2050" dự báo, đến năm 2030, nền kinh tế đại dương toàn cầu có thể đạt quy mô hơn 3.000 tỷ USD, tạo ra khoảng 40 triệu việc làm. Những lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất gồm: năng lượng gió ngoài khơi, nuôi biển và dịch vụ cảng biển.
Hiện tại, tổng vốn đầu tư (CAPEX) toàn cầu vào các ngành kinh tế biển đạt gần 20 nghìn tỷ USD. Trong đó, 80% vốn vẫn tập trung vào khai thác dầu khí. Tuy nhiên, một sự chuyển dịch mạnh mẽ đang diễn ra. Dự kiến đến năm 2050, đầu tư cho năng lượng gió ngoài khơi sẽ chiếm tới 50% tổng vốn, trong khi dầu khí chỉ còn 25%. Các lĩnh vực mới như nuôi biển công nghiệp, khử mặn nước biển, năng lượng từ sóng và hải lưu cũng sẽ gia tăng đáng kể tỷ trọng đầu tư.
Một đặc điểm đáng chú ý là tỷ lệ hoàn vốn (ROI) trong các ngành kinh tế biển xanh được đánh giá rất cao. Các nghiên cứu chỉ ra rằng mỗi 1 USD đầu tư vào điện gió ngoài khơi có thể tạo ra lợi ích từ 2-17 USD. Trong lĩnh vực nuôi biển bền vững, ROI lên tới 1:10. Những con số này cho thấy tính hấp dẫn về mặt tài chính của các ngành kinh tế biển xanh, đồng thời khẳng định tính cấp thiết của chiến lược chuyển dịch theo hướng net-zero carbon.
Phương Thảo