Cần xem xét lại bản án phúc thẩm với chứng cứ chưa thuyết phục

Theo hồ sơ có trong vụ án, năm 1995, ông Lê Văn Ngọc (SN 1954; ngụ TP Hồ Chí Minh) có hợp đồng chuyển nhượng hơn 300m2 đất (sau này xác định là 295m2) tại xã Hiệp Bình, quận Thủ Đức cũ (TP Hồ Chí Minh). Việc chuyển nhượng đã hoàn tất, ông Ngọc nhận đất ngoài thực địa. Năm 1999, ông Ngọc làm đơn xin phép cơ quan chức năng để sử dụng một phần 176m2 đất trong khu đất nói trên để xây nhà ở thì phát sinh tranh chấp với gia đình của hai ông Đoàn Hữu Hạnh và Đoàn Minh Đức.

Ông Ngọc cho rằng, phần đất tranh chấp thuộc số bản đồ 468, tờ bản đồ thứ 2 tọa lạc tại xã Hiệp Bình, diện tích 1.600m2, tên chủ đất (đến ngày 30/4/1975) là Trần Văn Tiếng và Châu Thị Kiên đứng bộ. Sau 30/4/1975 thuộc gia tộc của ông Nguyễn Văn Đời sử dụng và đăng ký thửa đất số 344 theo chỉ thị 299/TTg. Sau đó, theo chỉ thị 20/UB của UBND TP Hồ Chí Minh, diện tích 295m2 nói trên phân hóa thành các thửa 305A (20m2), 306A (271m2) và 308A (4m2), tờ bản đồ số 10, khu phố 5, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Năm 1995, con ông Đời là ông Nguyễn Hữu Chắng đã chuyển nhượng cho ông Ngọc và nhận đủ tiền, bàn giao đất trên thực địa.

Trong khi đó, bị đơn cho rằng đất tranh chấp có số bản đồ 467, tờ bản đồ thứ 2, xã Hiệp Bình, diện tích 2.650m2 do ông Nguyễn Văn Cảnh đứng bộ trước 1975. Năm 1961, ông Cảnh chuyển nhượng lại cho ba mẹ ông Đức và ông Hạnh là ông Đoàn Văn Nhầm và bà Châu Thị Dục. Hiện tại hai người này đã qua đời. Phần đất này sau đó thuộc thửa 343 và 1 phần thửa 344, tờ bản đồ số 2, Hiệp Bình. Đến nay thửa đất được phân hóa thành các thửa 443, 444, 445, 302 và một phần thửa 305, 306, 307 tờ bản đồ số 10, Hiệp Bình Phước.

Ông Lê Văn Ngọc trình bày vụ việc tại Cơ quan đại diện báo CAND tại TP Hồ Chí Minh.

Ông Lê Văn Ngọc trình bày vụ việc tại Cơ quan đại diện báo CAND tại TP Hồ Chí Minh.

Sau khi xem xét chứng cứ có trong hồ sơ, Tòa sơ thẩm xác định phần đất mà ông Ngọc mua của ông Chắng thuộc thửa 306, tờ bản đồ số 10, bộ địa chính phường Hiệp Bình Phước. Thửa đất này được cấu thành từ phần lớn của thửa 344 do ông Nguyễn Văn Đời đăng ký sử dụng và 1 phần nhỏ của thửa 343 do gia đình bà Châu Thị Dục sử dụng.

Từ cơ sở đó, bản án sơ thẩm số 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh quyết định: "Công nhận quyền sử dụng đất phần diện tích 295m2 theo bản đồ vị trí-áp ranh ngày 30/11/2020 do Trung tâm đo đạc bản đồ TP Hồ Chí Minh lập, địa chỉ khu đất tranh chấp thuộc lô 30, Quốc lộ 13, tờ bản đồ 10, tọa lạc tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Ông Lê Văn Ngọc căn cứ bản án này được quyền liên hệ cơ quan chức năng có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật". Tuy nhiên, ông Đoàn Hữu Hạnh và ông Đoàn Minh Đức đã kháng cáo bản án này.

Ngày 7/8/2025, TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án. Tại phiên tòa này, đại diện Viện công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại TP Hồ Chí Minh nêu rõ, những tài liệu chứng cứ mà bị đơn đưa ra không có căn cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo của ông Đoàn Hữu Hạnh, Đoàn Minh Đức, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ở cấp sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát cũng có đề nghị công nhận quyền sử dụng đất của ông Ngọc, bác yêu cầu phản tố của ông Đoàn Hữu Hạnh, Đoàn Minh Đức. Tuy nhiên, bản án phúc thẩm số 55/2025/DS-PT của TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh do Thẩm phán Vũ Đức Toàn làm chủ tọa đã tuyên công nhận quyền sử dụng đất 295m2 nói trên cho hai ông Đoàn Hữu Hạnh và Đoàn Minh Đức.

Bản án phúc phẩm khá dài với 44 trang, đưa ra nhiều tài liệu, chứng cứ để phản bác lại lập luận của Tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, tựu chung tài liệu chính yếu mà Tòa phúc thẩm viện dẫn để không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Ngọc chính là công văn số 154/CV-ĐĐBĐ ngày 15/4/2003 của Sở Địa chính- Nhà đất TP Hồ Chí Minh về việc xác định vị trí của khu đất mà ông Lê Văn Ngọc xin xây dựng nhà ở do phía bị đơn cung cấp. Mà công văn này, ở phiên tòa sơ thẩm không xem là chứng cứ hợp pháp theo quy định tại khoản 1 điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vì không có bản chính.

Công văn 154/CV/ĐĐBĐ nêu: Theo bản đồ hiện trạng số 11085/GĐ-ĐC-NĐ duyệt ngày 25/3/2003 của Sở Địa chính- Nhà đất, vị trí phần đất ông Lê Văn Ngọc xin sử dụng xây nhà ở có thửa chính thức là 955, diện tích 176m2 nằm trên một phần thửa cũ 306, tờ bản đồ thứ 10, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức (tài liệu đo năm 1993), nay thuộc phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức. Qua xác minh thực địa vị trí khu đất nêu trên theo tài liệu cũ nằm trong lô 467 (do ông Nguyễn Văn Cảnh đứng bộ) tờ bản đồ thứ 2, xã Hiệp Bình, nay là phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức.

Phần đất tranh chấp giữa ông Lê Văn Ngọc và hai ông Đoàn Hữu Hạnh, Đoàn Minh Đức.

Phần đất tranh chấp giữa ông Lê Văn Ngọc và hai ông Đoàn Hữu Hạnh, Đoàn Minh Đức.

Tại phiên tòa sơ thẩm ông Ngọc cho rằng tài liệu này do phía bị đơn ngụy tạo chứ ông không hề yêu cầu Đoàn đo đạc bản đồ xác định vị trí đất trên và yêu cầu tòa cho giám định chữ ký của ông Nguyễn Kỳ Nam là người ký trên trong công văn trên. Theo kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP Hồ Chí Minh vào ngày 31/7/2024 thì việc giám định này không thực hiện được do chữ ký sao chụp. Tiếp đến, TAND TP Hồ Chí Minh có công văn gửi Trung tâm đo đạc bản đồ để hỏi về công văn 154/CV/ĐĐBĐ thì nơi đây cho biết, trung tâm chỉ còn lưu trữ bản photo chứ không có bản chính. Từ cơ sở đó mà tòa sơ thẩm đã không xem công văn này là hợp pháp vì không có tài liệu gốc.

Trong khi đó Tòa phúc phẩm lại cho rằng công văn 154/CV-ĐĐBĐ là chứng cứ hợp pháp theo quy định tại điều 93 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Lập luận của Tòa phúc thẩm là thiếu thuyết phục, bởi theo khoản 1, điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”. Luật quy định rõ ràng như vậy nên việc Tòa cấp sơ thẩm không xem bản photo công văn 154/CV/ĐĐBĐ là chứng cứ hợp pháp đúng với quy định pháp luật.

Hiện tại ông Ngọc đã có đơn gửi cơ quan có thẩm quyền đề nghị xem xét theo trình tự giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm số 55/2025/DS-PT ngày 7/8/2025 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh. Trước khi có bản án này, liên quan đến công văn trên, ông Ngọc cũng đã có đơn gửi Cơ quan CSĐT Công an TP Hồ Chí Minh tố cáo một số người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và cung cấp tài liệu sai sự thật.

Hiện vụ việc đang được Phòng Cảnh sát kinh tế Công an TP Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết.

P.Tuyền

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/dieu-tra-theo-don-ban-doc/can-xem-xet-lai-ban-an-phuc-tham-voi-chung-cu-chua-thuyet-phuc-i782261/