Chèo cổ - Thao thiết ngầm chảy những dòng triết lý!

Ngày xưa, với người dân lam lũ, hầu như món ăn tinh thần chủ yếu là 'chiếu chèo' - nơi gửi gắm bao ước mơ, khát vọng, bao suy tư, trăn trở về lẽ đời, lẽ người. Có bốn dòng triết lý ngầm thao thiết chảy trong các tích chèo (!?).

Cái nhẫn tâm ích kỷ đàn ông hay sự hy sinh nhẫn nhục của người nữ?

Vở “Lưu Bình - Dương Lễ” kể về tình bạn của hai người bạn thân. Dương Lễ đỗ Trạng nguyên, được làm quan to. Lưu Bình thi trượt, phải trở về quê. Gặp cảnh loạn lạc, Lưu Bình tìm đến nhà Dương Lễ. Thất vọng vì sự đối đãi bội bạc của bạn, Lưu Bình muốn tìm tới cái chết. Dương Lễ kín đáo nhờ người vợ ba tên Châu Long nuôi bạn ăn học. Ba năm nàng “khuyên sớm khuyên trưa, anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng”.

Ba năm ấy “Nàng thời riêng mở một hiên/ Cửi canh cần mẫn vui miền nữ công”. Nàng ước hẹn với Lưu Bình, thi đỗ sẽ “động phòng đuốc hoa”… Ngày “chồng” thi đỗ cũng là ngày Châu Long trở về với chồng Dương Lễ. Lưu Bình đến chào bạn. Dương Lễ gọi Châu Long ra mừng bạn đỗ cao: “Chàng Lưu nhìn mặt rõ ràng/ Nàng chào chưa dứt ý chàng đã hay/ Tức thì lạy xuống trình bày/ Rằng ơn quan bác biết ngày nào quên”…

Một cảnh trong vở "Lưu Bình - Dương Lễ" (Nhà hát Chèo Hà Nội).

Một cảnh trong vở "Lưu Bình - Dương Lễ" (Nhà hát Chèo Hà Nội).

Trước nay hình tượng Châu Long vẫn được coi là biểu tượng cho người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp như vâng lời, hiền thục, nhân hậu, thủy chung… Nhưng đó chỉ là lớp nghĩa bề nổi. Dưới quan điểm “bình đẳng giới” hiện đại, cho thấy vấn đề không đơn giản vậy.

Về phía Dương Lễ, thiếu gì cách giúp bạn mà “nhờ” vợ mình làm “vợ bạn” (dù trên danh nghĩa) nuôi bạn ăn học. Ba năm rất dài với người phụ nữ đang tuổi xuân. Hơn nữa, thế là đẩy họ vào cảnh “lửa gần rơm”. Trai gái “đương xoan” mà “gần gũi” (cũng là “chịu đựng”) nhau “ba năm”… Như thế là bất nhẫn.

Theo đúng “nếp nhà” xưa, “vợ chồng tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách quý). “Đẩy” vợ mình vào cảnh oái oăm như vậy, Dương Lễ có xứng với đạo vợ chồng? Có “kính” vợ không? Rõ ràng là không. Rất có thể, chủ đề tình bạn chỉ là lớp nghĩa bề mặt, thẳm sâu hơn là một lời châm biếm của dân gian vào lớp đàn ông trí thức: có chữ mà bất nhẫn với chính người vợ của mình.

Đặt vào bối cảnh, thân phận người nữ xưa chỉ là “cơm nguội”, là chổi cùn để “chùi chân”, càng khẳng định có lớp nghĩa này hướng vào những kẻ có học chỉ biết nói đạo lý, còn việc làm thì ngược lại (!?).

Về phía Châu Long, nàng vui vẻ nghe và làm theo ý chồng. Tại sao dễ dàng thế? Với người nữ, đang tuổi yêu, đã có chồng, gia đình phải luôn là “số một”. Nhưng không một chút băn khoăn, không một chút trăn trở về tương lai bất định. Nếu “chồng” (mới) không đỗ, sự thể sẽ ra sao?

Dân gian sâu sắc hơn nhiều với lớp nghĩa ca ngợi người phụ nữ “vâng lời” với các sáo ngữ “hiếu hạnh”, “tiết nghĩa”… Nàng tự nguyện hy sinh tuổi trẻ, tình yêu một cách tuyệt đối cho sự ích kỷ của chồng. Một tiếng kêu thảng thốt cất lên về nhân quyền, nhân tính của phụ nữ: hãy biết thức tỉnh chính mình về quyền được sống, được yêu, được tôn trọng!

Cái vô cảm lạnh lùng?

Là một viên ngọc quý của văn hóa Việt, vở “Quan Âm Thị Kính” có Thị Kính đơn giản bao nhiêu, Thị Mầu “phức tạp” bấy nhiêu. Thị Kính rất ít nói. Thị Mầu nói rất nhiều. Từ điểm nhìn lý thuyết đối thoại văn hóa hiện đại sẽ thấy Thị Kính chủ yếu đối thoại với chính mình, với phận mình, còn Thị Mầu đối thoại với cả xã hội, với cả kiếp người.

Dân gian đã mượn bối cảnh, quan niệm nhà Phật để mạnh mẽ vượt qua mọi ràng buộc cấm đoán mà phát biểu một quan niệm khỏe khoắn về cái chất trần gian ở đời. Đậm đà một tinh thần nhân văn, khát khao một tinh thần dân chủ, cháy bỏng một khát vọng yêu và được yêu, sâu sắc một tinh thần nữ quyền, vở chèo sẽ mãi tỏa sáng vào cả tương lai góp phần làm rạng rỡ thêm bản sắc Việt.

Một cảnh trong vở "Quan âm Thị Kính" (Nhà hát Chèo Hà Nội).

Một cảnh trong vở "Quan âm Thị Kính" (Nhà hát Chèo Hà Nội).

Tại sao cả làng của Thị Kính, Thị Mầu chỉ biết hồ hởi ra “ăn khoán” chứ không cần biết đến lẽ phải: lời tố cáo có đúng không!? Thị Kính tốt, hiền lành cam chịu như thế mà bị oan, mà oan thảm, oan hai ba lần? Cái tiếng than của nàng rất yếu ớt với cha mẹ (Oan con lắm, mẹ/cha ơi); với làng (Trình lạy làng, oan kẻ tu hành này lắm); với nhà sư (Oan con lắm, thầy ơi).

Chẳng ai nghe, thành ra chỉ có Thị Kính “độc thoại”: “Oan này nhẫn chịu, thác rày thời thôi!”. Còn các “quan”, dù là quan “ăn tiên chỉ” cũng chỉ cần nhìn thấy “cái bụng chửa” của Thị Mầu, không cần “điều tra”, đã coi Thị Kính là “tác giả”!? Trời ơi? Vì con người ta vô cảm trước tai họa của con người!

Cái cục bộ địa phương?

Vở chèo “Trương Viên” có hai điều ngược đời, một dành cho cộng đồng, một dành cho cá nhân. Người Việt trước nay sống đoàn kết, hiếu khách “thương người như thể thương thân”. Nhưng ở ngôi làng nọ thì không thế. Trương Viên cùng các trai tráng lên đường chống giặc, dặn vợ là Thị Phương đưa mẹ về quê lánh nạn. Trên đường về vất vả, cực khổ, người con dâu hiếu thảo phải nhịn đói nhường cơm cho mẹ.

Đến ngôi làng kỳ lạ nọ thì gặp tai ách. Vì “phạm thượng” mà làng ấy hàng năm phải tế cho hung thần cặp mắt của một người phụ nữ. “Giàu hai con mắt/ Khó hai bàn tay”. Không muốn người làng là nạn nhân, làng bèn đặt lệ, ngày ấy giờ ấy trong năm, người phụ nữ nào đặt chân vào làng sẽ bị móc mắt. Ngẫu nhiên năm ấy là mẹ Trương Viên. Thế mà dân làng ấy vẫn đồng tình việc “móc mắt” một bà cụ già lang thang, cơ nhỡ? Thị Phương xin được hiến mắt thay mẹ…

Một sự ngược đời mỉa mai đau đớn vào tính “địa phương chủ nghĩa”, ích kỷ, gán cái tật ách, cái tiêu cực, cái xấu xí của mình, bắt người khác phải gánh chịu… Cái xấu này hôm nay có còn không, hay còn “mạnh mẽ” hơn?

Còn cái ngược đời của cá nhân dồn vào vai Thị Phương, hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ, hiếu thảo thế mà bị “móc mắt”, trái ngược hẳn với triết lý “ở hiền gặp lành” vốn có… Như con dao mổ, tiếng cười châm biếm dân gian đã rạch vết ung nhọt, nặn ra chất mủ tiêu cực, để cơ thể khỏe mạnh!

Cái quan liêu xa cách đời sống của trí thức?

Trong “Quan Âm Thị Kính”, Thị Kính yêu chồng lại bị vu oan thành kẻ giết chồng. Cái nguyên cớ ban đầu là tính cách yếu nhược, nông cạn của người chồng Thiện Sỹ. Là “nho sinh” vừa không hiểu biết vừa thiếu nhân tính, tức vô học và vô đạo. Ngu đến mức không biết “cái râu mọc ngược”, theo tín ngưỡng là điềm gở (!?). Vô đạo đến mức đẩy vợ hiền vào bi kịch. Nó chưa phải là người, chưa nói tới tình nghĩa vợ chồng “đầu gối tay ấp”...?

Thế nên dân gian biến nó thành con vẹt. Tượng “Quan Âm tống tử” là hình ảnh một người phụ nữ bế một đứa bé, bên cạnh có con vẹt. Con vẹt ấy là Thiện Sĩ. Nó mãi là kiếp vẹt, “học vẹt”, “nói vẹt”... Dân gian sâu sắc vô cùng: muốn làm người khôn, tử tế, phải thoát kiếp “vẹt”!

Cụ Đồ tiêu biểu cho “trí thức” trong làng nhưng được miêu tả là người bị “điếc”. Thế nên “cụ” nhầm những điều thật ngớ ngẩn. Được mời ra “ăn khoán”, “cụ” lại hiểu “nay làm quán mai bắc cầu”; “dẹp trận lôi đình” thì lại hiểu là “định lôi đình làng đi đâu”; “có chửa” (tức có thai) lại hiểu là động từ “chửa ra” tức chưa ra… Rồi vị “trí thức” ấy cũng “mục sở thị” bằng cách “sờ”… bụng Thị Mầu!

Tiếng cười của hề trong “Từ Thức” san phẳng các ngăn cách đạo lý, luân lý để đưa tất cả về với sự tự do tuyệt đối, ở đó không có bất kỳ một biểu hiện quyền lực nào, một áp lực nào. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Từ Thức (là thầy) với nhân vật Hề (trò) trong mảnh trò “Hề theo thầy”, trích trong “Từ Thức”:

Hề: … Cái gì đo đỏ dưới mũi tiên kia?

Từ Thức: À, cái quạt tiên.

Hề: Cái quạt thì nom thấy rồi, nhưng cái gì ở trong cái quạt?

Từ Thức: Trong cái quạt là cái kiềng.

Hề: Gớm, đi với người ngu, tức thật, ở trong cái kiềng cơ?

Từ Thức: Trong cái kiềng là cái áo tiên.

Hề: Chỗ nói không nói, lại cứ đi nói đằng nào. Ở trong cái áo cơ?

Từ Thức: Trong cái áo là cái yếm tiên chứ gì!

Hề: Cái yếm thì ai không biết, ở trong cái yếm kia…

Hề: Thôi vứt đi rồi, thấy bảo ông học nhiều lắm, thế mà lại bảo nhũ là vú…

Đó là sự “lộn ngược” mối quan hệ thầy - trò. Không những không thưa bẩm, trò lại “truy” thầy, thậm chí mắng mỏ thầy (với người ngu), mỉa thầy (thấy bảo ông học nhiều lắm…). Tiếng cười hướng vào cái “ăn hại”, dớ dẩn, rỗng tuếch, chả có tý kiến thức gì về thực tế đời sống của “thầy” - tức những “trí thức” dở hơi...

Bốn dòng chảy ấy có còn âm thầm thao thiết, nhức nhối trong đời sống hôm nay?

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/cheo-co-thao-thiet-ngam-chay-nhung-dong-triet-ly--i787304/