Chiếc quan tài của người còn sống: Nỗi đau thầm lặng sau chiến tranh
Chiến tranh đã lùi xa nhiều thập niên, nhưng những hình ảnh mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha vẫn chưa hề nguôi ngoai.


Từ đầu tháng 10 đến tháng 12/2020, miền Trung Việt Nam hứng chịu liên tiếp những trận lũ quét lịch sử. Mưa lũ dồn dập trút xuống từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi, gây chia cắt giao thông, nhấn chìm nhà cửa trong biển nước. Đau thương, tang tóc bao trùm lên biết bao gia đình nơi "khúc ruột miền Trung" vốn quanh năm vất vả nhọc nhằn. Hàng triệu người con đất Việt, dù ở bất cứ đâu, đều đau đáu hướng về miền Trung ruột thịt trong tinh thần "tương thân tương ái".
Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) cũng phát động quyên góp từ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nghệ sĩ và tổ chức đêm nghệ thuật thiện nguyện “Thương về miền Trung” để sẻ chia mất mát với đồng bào vùng lũ.

Đoàn công tác thiện nguyện của VOV đã lên đường vào đúng ngày 18/10/2020 - ngày làm lễ truy điệu 13 cán bộ, chiến sĩ hy sinh tại trạm kiểm lâm 67 khi cứu hộ sự cố thủy điện Rào Trăng ở Thừa Thiên Huế. Sau khi viếng 13 liệt sĩ, đoàn chia thành nhiều nhóm nhỏ mang theo nhu yếu phẩm, thuốc men, thiết bị lọc nước và tiền cứu trợ đến các huyện, xã bị ảnh hưởng nặng nề ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Bên cạnh việc trao quà tại trụ sở chính quyền địa phương, các thành viên còn trực tiếp đến thăm những gia đình chính sách, gia đình đặc biệt khó khăn để động viên cả về vật chất lẫn tinh thần.
Khi tới huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), đoàn được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc địa phương đưa về thôn Lai Lộc, xã Cẩm Thịnh thăm cụ bà Phan Thị Nuôi - vợ liệt sĩ Phan Viết Thưởng. Hoàn cảnh của cụ Nuôi khiến tất cả chúng tôi nghẹn ngào xúc động.

Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi khi bước vào nhà cụ Nuôi là một chiếc quan tài đặt ngay chính giữa gian nhà. Căn nhà nhỏ đã xuống cấp, tường vôi bong tróc loang lổ vì ngâm nước lũ.
Trên nắp quan tài là bát hương nghi ngút khói, bên cạnh lèo tèo vài chiếc chén, bát sứ sứt mẻ. Trước bàn thờ đơn sơ, một cụ bà dáng người gầy guộc, khắc khổ, mái tóc bạc trắng đang run run thắp những nén nhang, lầm rầm khấn điều gì đó trong tĩnh lặng. Khung cảnh ấy khiến chúng tôi - những người vừa đặt chân tới - không ai cầm được nước mắt.

Cụ Phan Thị Nuôi thắp nén hương bên chiếc quan tài đã chuẩn bị sẵn cho mình, đặt ngay giữa căn nhà đơn sơ - hình ảnh ám ảnh về nỗi đau mất mát kéo dài sau chiến tranh.
Cụ bà Phan Thị Nuôi năm nay đã gần 90 tuổi (sinh năm 1936). Lãnh đạo địa phương giới thiệu đoàn chúng tôi với cụ, nhắc rằng chúng tôi tới thăm hỏi gia đình và hỗ trợ bà con vùng lũ. Cụ đón tiếp với giọng nói yếu ớt và đôi tay còn run rẩy sau cơn hoảng loạn vì lũ dữ vừa qua. Khi lắng nghe câu chuyện đời của cụ, ai nấy đều thấy sống mũi cay sè.
Cuộc đời cụ Nuôi là chuỗi dài những mất mát và cô đơn. Ông bà sinh được hai người con gái, người con gái lớn lấy chồng ở xã Cẩm Sơn, nhưng gia cảnh cũng hết sức khó khăn, chồng lại đau ốm triền miên vì bạo bệnh nên chẳng phụ giúp được mẹ già.
Người con gái thứ hai lấy chồng ở xã Cẩm Hà, nhưng nghiệt ngã thay, trong vòng 5 tháng ngắn ngủi, cả hai vợ chồng đều qua đời: chồng mất do tai nạn vào tháng 9/2019, vợ mắc ung thư và qua đời vào tháng 1/2020.
Tuổi già, với nhiều nỗi đau dồn dập ập đến, đã không còn nơi nương tựa lại tiếp thêm gánh nặng nữa là nuôi hai đứa cháu nhỏ mồ côi cha mẹ, hiện đang sống nương nhờ họ hàng nội ngoại.
Hiện tại, cụ Nuôi sống lủi thủi một mình trong căn nhà tình nghĩa được địa phương xây tặng từ năm 2000. Qua 20 năm, căn nhà đã dột nát lại vừa trải qua trận lũ lịch sử nước ngập gần tới trần - với cụ, đó thực sự là một cơn ác mộng kinh hoàng.
Cụ nghẹn ngào bảo chúng tôi: trong nhà cụ giờ chẳng còn tài sản gì đáng giá ngoài “cỗ hậu sự” (chiếc quan tài) đã chuẩn bị sẵn. Đó là tài sản quý nhất, để khi cụ nằm xuống thì có chiếc quan tài này, khỏi phải “bó chiếu” hay phiền lụy đến xóm giềng. Thật xót xa: thứ giá trị nhất trong căn nhà của một người vợ liệt sĩ rốt cuộc lại là chiếc quan tài của chính bà.
Trận lũ vừa qua suýt nữa cũng cướp luôn “của để dành” cuối cùng ấy. Nước dâng ngập cả gian nhà, rất may nhờ chính quyền kịp thời sơ tán và hàng xóm cứu giúp mà cụ Nuôi thoát nạn trong gang tấc, chiếc quan tài cũng chỉ bị ngấm nước chứ chưa trôi đi. Lũ rút, cụ lại nhờ người khiêng quan tài ra phơi nắng cho khô rồi đặt vào chỗ cũ. Kể đến đây, ánh mắt cụ ánh lên một nét cười mệt mỏi, giọng run run của cụ dường như cũng vững hơn đôi chút – bởi trong rủi có may, ít ra cụ vẫn còn ngồi đây để kể lại câu chuyện đời mình.
Cụ bảo: “Đến tuổi này tôi chết cũng được rồi nhưng cũng không chết được vì hai món nợ”. Nói đến đó, khóe mắt người quả phụ 89 tuổi lại rưng rưng.
Món nợ thứ nhất – theo lời cụ – là chưa tìm được hài cốt của chồng. Gần nửa thế kỷ qua, ngày nào cụ cũng cảm thấy mình “có lỗi” với ông và với tổ tiên, khi chưa đưa được ông về an nghỉ nơi quê nhà. Các con thì đứa mất sớm, đứa đau yếu bệnh tật, không ai thay cụ làm tròn bổn phận ấy.
Món nợ thứ hai là khoản tiền cụ vay mượn hàng xóm để đi tìm hài cốt chồng, đến nay vẫn chưa trả được. Hai món nợ – một về tâm linh, một về miếng cơm manh áo - cứ đè nặng lên tâm trí cụ, khiến cụ chưa dám thanh thản “nhắm mắt xuôi tay”.

Chồng cụ Nuôi là liệt sĩ Phan Viết Thưởng, nhập ngũ ngày 6/3/1962. Sau thời gian huấn luyện ở Vĩnh Linh, Quảng Trị, ông được điều sang chiến đấu chi viện tại chiến trường nước bạn Lào. Năm 1968, ông Thưởng từng tranh thủ về phép thăm nhà một lần duy nhất rồi lại lên đường.
Một người đồng đội cùng làng sau này kể lại: ông từng bị thương nặng và được đơn vị cho về tuyến sau dưỡng thương, nhưng ông tình nguyện ở lại chiến trường để bảo vệ kho quân khí mật của đơn vị. Trong một trận chiến đấu ác liệt, ông đã anh dũng hy sinh năm 1969 tại Lạc Xao, huyện Căm Cớt, tỉnh Bô-ly-khăm-xay (Lào). Đất nước Lào rộng lớn đã vĩnh viễn ôm lấy người lính trẻ; chính người đồng đội kể chuyện này cũng không biết chính xác hài cốt liệt sĩ Phan Viết Thưởng nằm lại nơi nào giữa núi rừng Lạc Xao.
Hay tin, cụ Nuôi như chết lặng, nhưng tình yêu và lòng thủy chung đã khiến người phụ nữ góa bụa quyết không tái giá, một lòng thờ chồng, nuôi con. Thời gian thấm thoát trôi qua, con cái trưởng thành rồi mỗi người mỗi cảnh, cụ Nuôi vẫn đau đáu ước nguyện duy nhất: “Ông hãy trở về, dẫu chỉ còn một nắm đất”.
Gần 40 năm sau ngày nhận giấy báo tử của chồng, cụ bà vẫn bền bỉ, quyết tâm đi khắp nơi dò hỏi tin tức và tìm mộ chồng – chỉ với một niềm tin son sắt phải đưa được ông về với đất mẹ quê hương.
Sau này, nhờ đồng đội cũ cung cấp được một số thông tin mơ hồ về nơi hy sinh của liệt sĩ Thưởng, cụ Nuôi quyết định khăn gói sang tận nước bạn Lào để tìm hài cốt chồng. Tuổi cao sức yếu, cụ phải vay mượn tiền bạc của họ hàng, làng xóm gom góp làm lộ phí cho hành trình gian nan. “Thân gái dặm trường”, cụ lặn lội qua biên giới không chỉ một lần mà những bốn lần. Lần đầu năm 2013, lần thứ hai năm 2015, lần thứ ba năm 2017. Đến năm 2018, gia đình cụ lại nhờ Ban chỉ huy quân sự xã phối hợp với đội quy tập hài cốt liệt sĩ tỉnh tiếp tục sang Lào tìm kiếm.
Thế nhưng tất cả các cuộc hành trình ấy đều trở về tay trắng. Ròng rã suốt mấy năm trời trèo đèo lội suối, ngủ màn trời chiếu đất, cơm nắm muối vừng mang theo cầm hơi, vượt qua bao gian nan nguy hiểm… đổi lại vẫn là thông tin bằng không. Ông vẫn “bặt vô âm tín” nơi đất bạn, như đã hòa thân vào núi rừng miền biên viễn. Còn cụ, mỗi chuyến đi lại mang thêm một món nợ. Tổng số tiền nợ cứ tăng dần sau mỗi lần cụ nuôi hy vọng rồi thất vọng trở về, cho tới nay đã lên tới 15 triệu đồng chưa trả được.
Cụ Nuôi hiểu rằng chiến tranh quá đỗi khốc liệt, không phải người lính nào ngã xuống cũng may mắn được quy tập về nghĩa trang hoặc tìm thấy hài cốt. Nhiều liệt sĩ mãi mãi nằm lại nơi cánh rừng, con suối; có những người đã hy sinh mà thân xác mỗi phần một nơi, hoặc yên nghỉ trong mộ tập thể vô danh. Thế nhưng, trái tim người vợ không cho phép cụ từ bỏ. Cụ luôn tự nhủ phải cố gắng thêm lần nữa, “một lần này nữa thôi”. Biết đâu ông còn linh thiêng sẽ dẫn đường chỉ lối cho cụ đến được nơi ông nằm.
Năm nay, cụ đã ở cái tuổi xưa nay hiếm, mắt mờ chân chậm, tóc bạc lưng còng, sức khỏe cứ cạn dần sau những cú sốc mất mát nối dài. Bản thân cụ cũng mắc đủ thứ bệnh tuổi già, ốm đau liên miên cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhưng điều khiến cụ day dứt nhất vẫn là lời hẹn với chồng. Cụ bảo nếu chuyến đi tới mà vẫn không tìm thấy ông, có lẽ cụ sẽ lẳng lặng lấy một nắm đất ở Lạc Xao mang về đặt trên bàn thờ, coi như đó là ông – để cụ được yên lòng nhắm mắt khi về với tổ tiên.
Nghe câu chuyện của cụ, chúng tôi – những người đang sống trong hòa bình – không khỏi nghẹn ngào, thấm thía. Chỉ một câu chuyện đời của cụ bà Phan Thị Nuôi đã phần nào cho thấy chiến tranh tàn khốc đến nhường nào. Nó không chỉ cướp đi tuổi xuân và hạnh phúc của hàng triệu người phụ nữ Việt Nam, mà còn để lại những di chứng đau thương kéo dài suốt nhiều thập kỷ sau khi tiếng súng ngừng vang. Có những người vợ, người mẹ đến cuối cuộc đời vẫn mang theo vết thương lòng không thể nào nguôi.

Trước những hy sinh thầm lặng và hoàn cảnh đặc biệt của cụ Phan Thị Nuôi, đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam đã quyết định có một hành động thiết thực để tri ân. Ngoài phần quà và tiền hỗ trợ lũ lụt theo quy định chung, các thành viên trong đoàn đã đóng góp, thay mặt cụ trả số nợ 15 triệu đồng mà cụ đã vay mượn để đi tìm hài cốt chồng.
Số tiền không quá lớn, nhưng đó là tấm lòng của những người hậu phương hôm nay xin dâng lên anh linh người liệt sĩ như một nén tâm nhang thành kính. Khoản nợ trần thế - “món nợ thứ hai” của cụ Nuôi như vậy đã được gánh đỡ.
Còn “món nợ” đầu tiên - lời hẹn tìm được hài cốt chồng - thì không chỉ là trăn trở của riêng cụ, mà là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta, những người đang được hưởng hòa bình, độc lập hôm nay.

Nhà báo Vũ Hải Quang trao tiền hỗ trợ cụ Phan Thị Nuôi để giúp cụ trang trải món nợ khi đi tìm mộ chồng.
Chia tay cụ ra về, trong lòng mỗi người nặng trĩu một nỗi buồn khó tả về những kiếp người đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thể trọn nỗi lo toan. Cụ Nuôi đã lo cho chồng, lo cho con, lo cho cháu cả một đời. Đến cuối đời, cụ vẫn lo không ai lo cho mình khi nằm xuống. Bao mất mát sau chiến tranh, bao đau thương thời hậu chiến, biết đến bao giờ mới có thể nguôi ngoai? Chúng tôi chỉ biết thầm cầu mong có một phép màu để điều ước của cụ sớm thành hiện thực – để liệt sĩ Phan Viết Thưởng được trở về với quê hương, và để người vợ già nghèo khó ấy được nhắm mắt thanh thản sau ngót nửa thế kỷ mỏi mòn chờ đợi.
Trước lúc rời căn nhà đơn sơ, các thành viên trong đoàn công tác kính cẩn thắp nén nhang trên bàn thờ liệt sĩ Phan Viết Thưởng. Tất cả cúi đầu tri ân sự hy sinh vô cùng to lớn của người anh hùng liệt sĩ và bày tỏ lòng biết ơn cụ bà Phan Thị Nuôi - người đã hy sinh cả cuộc đời để thờ chồng, nuôi con, góp phần giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và sự bình yên cho Tổ quốc hôm nay.
Trong khoảnh khắc ấy, không ai nói với ai lời nào, nhưng ai cũng ngầm hiểu rằng còn biết bao cụ bà, cụ ông là thân nhân liệt sĩ khác cũng đang lặng lẽ sống giữa đời thường với những nỗi đau riêng không dễ sẻ chia.

Cụ Phan Thị Nuôi chỉ là một trong hàng vạn thân nhân liệt sĩ trên khắp dải đất hình chữ S vẫn âm thầm chịu đựng mất mát sau chiến tranh. Trên mọi miền Tổ quốc, còn biết bao những bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã hiến dâng chồng, con cho đất nước, sống tiếp cuộc đời mẹ góa con côi trong lặng lẽ.
Chẳng hạn, Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ ở Điện Bàn, Quảng Nam - biểu tượng bất diệt của lòng mẹ Việt Nam - có tới 9 người con trai, 1 con rể và 2 cháu ngoại đều là liệt sĩ trong hai cuộc kháng chiến. Gần 106 tuổi đời, mẹ Thứ đã tiễn biệt cả gia đình lớn của mình về với đất mẹ, nén đau thương vào tim và âm thầm sống cho đến ngày đất nước hòa bình thống nhất. Sự hy sinh vĩ đại của Mẹ Thứ cũng như hàng vạn bà mẹ Việt Nam Anh hùng khác sẽ mãi được Tổ quốc ghi công.
Bên cạnh những người mẹ mất con, còn có biết bao người vợ mất chồng suốt đời thờ thủy chung một bóng. Họ chính là những “liệt sĩ sống” khi chôn vùi tuổi thanh xuân và hạnh phúc riêng để tri ân người chồng đã khuất.
Câu chuyện của cụ bà Trần Thị Kim Chính (xã Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định) là một ví dụ xúc động: hơn 40 năm kể từ ngày nhận giấy báo tử của chồng, bà Chính vẫn bền bỉ lặn lội khắp các nghĩa trang từ Nam ra Bắc quyết tâm đi tìm mộ chồng – liệt sĩ Nguyễn Xuân Hưởng hy sinh tại chiến trường Đông Nam Bộ - để đưa ông về quê hương cho trọn nghĩa vợ chồng.
Bàn chân người vợ ấy đã in dấu trên khắp các nẻo đường Trường Sơn, làm đủ nghề để kiếm sống và có kinh phí cho hành trình mỏi mòn. Không quản gian khó, bà vẫn mang một niềm tin sắt son rằng đến một ngày sẽ đón được ông về với đất mẹ. Tấm gương chung thủy và kiên cường của những người vợ liệt sĩ như bà Chính, bà Nuôi… đã tô thắm thêm phẩm chất anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của phụ nữ Việt Nam thời chiến.


Tháng Bảy lại về, cả nước lặng mình tưởng nhớ các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Đây là dịp để mỗi người Việt Nam bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với những người đã ngã xuống, và tri ân cả những người may mắn được trở về sau cuộc chiến cũng như thân nhân của họ.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dấu vết của nó vẫn in hằn trong ký ức dân tộc. Hàng triệu liệt sĩ đã yên nghỉ trong những nghĩa trang trải dọc đất nước; cũng có không ít liệt sĩ được cất bốc, quy tập nhưng chưa xác định được danh tính; và còn đó rất nhiều liệt sĩ có hài cốt vẫn nằm lại nơi rừng sâu núi thẳm, thậm chí vẫn mất tích không dấu vết. Dẫu vậy, hình ảnh các anh hùng sẽ còn sống mãi – sống trong lòng đất mẹ Việt Nam, sống trong tâm tưởng các thế hệ hôm nay và mai sau.
Ngày hôm nay, được hưởng cuộc sống hòa bình, ấm no, chúng ta càng thấm thía cái giá của độc lập dân tộc. Mỗi người dân đất Việt hãy luôn ghi nhớ rằng hạnh phúc hiện tại được đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của lớp lớp cha anh đi trước.
Những bà mẹ mất con, người vợ mất chồng như cụ Phan Thị Nuôi đang lặng lẽ giữa đời thường chính là những tượng đài bất khuất nhắc nhở chúng ta về sự tàn khốc của chiến tranh và giá trị của hòa bình. Hãy cùng nhau chung tay xoa dịu nỗi đau chiến tranh còn sót lại, bằng sự quan tâm, chăm sóc về vật chất lẫn tinh thần cho các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những Mẹ Việt Nam Anh hùng…
Hơn thế nữa, hãy cùng nhau gìn giữ hòa bình, vun đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc và kêu gọi một thế giới không còn chiến tranh, để những mất mát đau thương như của cụ Nuôi sẽ không bao giờ lặp lại ở bất cứ đâu trên Trái Đất này.
Xin nghiêng mình trước anh linh các Anh hùng liệt sĩ và gửi muôn lời tri ân đến những người mẹ, người vợ liệt sĩ Việt Nam. Xin mượn lời thơ của cựu chiến binh Lê Bá Dương - một người lính may mắn trở về – như một nén tâm hương dâng lên những đồng đội đã nằm lại ở tuổi đôi mươi, và cũng là lời kết cho bài viết này:
“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ cõi mãi ngàn năm”.