Chính thức tăng mức chuẩn trợ cấp xã hội lên 500.000 đồng

Mức chuẩn trợ giúp xã hội chính thức tăng lên 500.000 đồng/tháng từ ngày 1/7, tăng 140.000 đồng so với mức cũ, theo Nghị định mới ban hành của Chính phủ..

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 76/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

Theo Nghị định mới của Chính phủ, mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 1/7/2024 tăng lên 500.000 đồng/tháng, tăng 140.000 đồng so với mức cũ (360.000 đồng).

Chính phủ quy định tùy theo khả năng cân đối của ngân sách, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tình hình đời sống của đối tượng bảo trợ xã hội, cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội cho phù hợp; bảo đảm tương quan chính sách đối với các đối tượng khác.

Trường hợp điều kiện kinh tế - xã hội địa phương bảo đảm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội áp dụng trên địa bàn cao hơn mức chuẩn trợ giúp xã hội và mức trợ giúp xã hội quy định tại Nghị định này.

Đối tượng khó khăn khác chưa quy định tại Nghị định này được hưởng chính sách trợ giúp xã hội.

Các nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội tại Nghị định mới, về cơ bản không thay đổi và kế thừa từ Nghị định 20/2021/NĐ-CP.

Theo Nghị định 20/2021, có 8 nhóm đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng bao gồm:

(1) Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội.

Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam, hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật.

Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội; cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam, hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội; cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật, và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam, hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam, hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

(2) Người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi, nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.

(3) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.

(4) Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết, hoặc mất tích theo quy định của pháp luật, và đang nuôi con dưới 16 tuổi, hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi, và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP.

(5) Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây:

Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.

Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.

Người từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trợ cấp xã hội hằng tháng.

Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội, nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.

(6) Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật.

(7) Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.

(8) Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hằng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hằng tháng.

Với việc điều chỉnh mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng/tháng lên 500.000 đồng/tháng, ước tính tổng kinh phí ngân sách Nhà nước năm 2024 là hơn 32.200 tỷ đồng, tăng thêm hơn 4.700 tỷ đồng thực hiện trong 6 tháng cuối năm nay.

Kinh phí này dùng để thực hiện trợ cấp xã hội hằng tháng với mức chuẩn trợ giúp xã hội 500.000 đồng/tháng cho khoảng 3,356 triệu đối tượng bảo trợ xã hội, và 349.000 đối tượng hưởng hỗ trợ kinh phí chăm sóc.

Ngân sách địa phương tự bảo đảm đối với các trường hợp nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội và mở rộng đối tượng thụ hưởng.

Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hằng năm, ngân sách nhà nước đã bố trí hơn 27.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng bảo trợ xã hội.

Phúc Minh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/chinh-thuc-tang-muc-chuan-tro-cap-xa-hoi-len-500-000-dong.htm