Chữ ký số: Lợi ích lớn trong từng giao dịch nhỏ
Trong kỷ nguyên số, mỗi cái chạm tay để 'ký' trên màn hình điện thoại, mỗi cú click chuột trên máy tính đang âm thầm thay thế những chuyến xe đi - về, những tập hồ sơ dày cộp, những con dấu đỏ in mờ, in đậm. Chữ ký số (CKS ) không chỉ là một công nghệ, mà đang trở thành 'hạ tầng tin cậy' cho từng giao dịch nhỏ, từng thủ tục hành chính, từng hợp đồng kinh tế, dân sự của người dân và doanh nghiệp; góp phần hướng tới mục tiêu chuyển đổi số (CĐS) quốc gia: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.

VNPT Thanh Hóa tập huấn CĐS (bao gồm CKS) cho cán bộ, giáo viên Trường Mầm non Ngọc Trạo, phường Quang Trung.
Hành trình từ thuật toán đến hạ tầng tin cậy
Trên thế giới, CKS ra đời từ các nghiên cứu mật mã học thập niên 1970, khi mô hình “khóa bí mật – khóa công khai” (private key – public key) được xây dựng nhằm xác thực danh tính và bảo đảm tính toàn vẹn dữ liệu. Bước sang thập niên 1990, CKS dần được luật hóa, trở thành nền tảng cho thương mại điện tử, ngân hàng số và dịch vụ công trực tuyến ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, dấu mốc quan trọng là Luật Giao dịch điện tử năm 2005, lần đầu công nhận chữ ký điện tử, CKS và giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu. Sau đó, các quy định về CKS và dịch vụ chứng thực CKS được ban hành, đặt nền móng xây dựng hệ thống chứng thực điện tử. Năm 2008, Trung tâm Chứng thực CKS quốc gia được thành lập; năm 2009, dịch vụ chứng thực CKS công cộng đầu tiên được cấp phép, đưa CKS từ văn bản luật bước vào đời sống.
Cùng với tiến trình CĐS, CKS tiếp tục được hoàn thiện về thể chế. Nghị định 130/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về CKS và dịch vụ chứng thực CKS. Nghị định này, quy định tiêu chuẩn an toàn, quy định về cấp, quản lý, sử dụng chứng thư số để dùng cho CKS. Luật Giao dịch điện tử năm 2023 (có hiệu lực từ 1/7/2024) mở rộng phạm vi áp dụng, phân loại rõ CKS và các dịch vụ tin cậy, khẳng định giá trị pháp lý của hồ sơ, hợp đồng điện tử trong nhiều lĩnh vực.
Nếu như giai đoạn đầu, CKS chủ yếu hiện diện ở doanh nghiệp (thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội...), thì vài năm trở lại đây có thể xem là giai đoạn “bùng nổ”. Đại dịch COVID-19 buộc nhiều hoạt động chuyển lên môi trường trực tuyến; chiến lược CĐS quốc gia, Đề án 06, cùng các nền tảng số như VNeID và dịch vụ ký số từ xa trên thiết bị di động... khiến CKS không còn là “đặc quyền” của doanh nghiệp lớn, mà dần trở thành công cụ quen thuộc với cán bộ, công chức và người dân.
Điểm cốt lõi làm nên sức mạnh của CKS nằm ở chỗ: vừa được pháp luật bảo đảm giá trị như chữ ký tay và con dấu, vừa mang những ưu thế mà giấy tờ truyền thống không có. Những ưu thế ấy thể hiện ở ba điểm, đó là: tốc độ và chi phí; sự minh bạch, khả năng truy vết và sự linh hoạt. Khi ký số từ xa tích hợp trên thiết bị thông minh cầm tay trở nên phổ biến, “con dấu” thời đại số cũng vì thế mà gần hơn với người dùng phổ thông.
Ứng dụng CKS: từ công sở đến bản, làng vùng cao
Trong bức tranh CĐS của cả nước, Thanh Hóa sớm đặt mục tiêu phổ cập CKS, hướng tới việc “mỗi người dân trưởng thành có một CKS”. Từ trụ sở các sở, ngành, phường, xã ở đô thị, miền xuôi đến những xã vùng sâu, vùng xa, biên giới; từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ công, CKS đang từng bước đi vào quản lý, điều hành và phục vụ người dân.
Ông Lê Mạnh Toàn, Phó Giám đốc Trung tâm Kinh doanh Giải pháp, VNPT Thanh Hóa, cho biết: Tập đoàn bắt đầu cung cấp dịch vụ CKS từ năm 2009. Tại Thanh Hóa, VNPT phối hợp với ngành thuế triển khai CKS cho doanh nghiệp từ năm 2011. Hiện, đơn vị đang cung cấp các loại hình CKS, gồm: VNPT-CA (USB Token), VNPT SmartCA (ký số từ xa trên iOS/Android), VNPT-HSM (lưu khóa trên máy chủ). Theo thống kê của đơn vị, đến nay có khoảng 500.000 CKS (cả khách hàng cá nhân và doanh nghiệp) đang được cung cấp; mục tiêu thời gian tới là đẩy mạnh nhóm người dùng cá nhân, phấn đấu trên 50% công dân trưởng thành có CKS”.
Thời gian qua, tại Thanh Hóa CKS đã trở thành “chìa khóa” trong quản lý, điều hành trên môi trường điện tử của hệ thống chính trị: các sở, ban, ngành sử dụng CKS trong hệ thống quản lý văn bản và điều hành; phần lớn văn bản trao đổi giữa các cơ quan Nhà nước được ký, phát hành điện tử (đạt tỷ lệ 98%). Nhiều giao dịch với cơ quan thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, kho bạc... chuyển sang hình thức điện tử với CKS là lớp xác thực quan trọng.
Ở cấp xã, nơi từng được xem là “xa lạ” với công nghệ, CKS cũng dần thành thói quen công vụ. Ví dụ như Tam Chung – xã biên giới còn nhiều khó khăn của tỉnh, những năm gần đây xã này đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành và giải quyết thủ tục hành chính. Bà Trương Thị Huyên, Phó Chủ tịch UBND xã, cho biết: “Trước đây, mỗi khi ký văn bản điều hành, chúng tôi phải chờ in, trình ký, đóng dấu rồi mới phát hành. Từ khi sử dụng văn bản điện tử, CKS, nhiều tài liệu gửi trước qua hệ thống, cổng dịch vụ công được ký kịp thời; văn bản phát hành nhanh chóng mà không phải chờ đợi. Người dân và các đơn vị liên quan tiếp cận thông tin nhanh hơn, công việc cũng bớt cồng kềnh”.
Không chỉ khối Đảng, chính quyền, CKS còn được ứng dụng trong đời sống kinh tế - xã hội, như: thuế, bảo hiểm xã hội, điện, nước, viễn thông, ngân hàng, trường học, bệnh viện... Doanh nghiệp dùng CKS để khai - nộp thuế điện tử, xuất hóa đơn điện tử, ký kết hợp đồng từ xa; các đơn vị sự nghiệp dùng CKS để ký quyết định, thông báo, bảng lương điện tử.
Ông Phạm Tiến Hải, Giám đốc Công ty Du lịch quốc tế Đông Hải, phường Hạc Thành, chia sẻ: “Tôi thường xuyên di chuyển. Từ hợp đồng kinh doanh, thủ tục khai thuế, văn bản nội bộ... đều có thể ký trên thiết bị điện tử ở bất cứ đâu, trong bất cứ khung thời gian nào. CKS thực sự hữu ích cho doanh nghiệp chúng tôi”.
Cùng với phạm vi ứng dụng mở rộng, cách thức sử dụng CKS cũng thay đổi nhanh. Nếu trước đây CKS thường gắn với thiết bị USB Token khiến nhiều người e ngại, thì nay ký số từ xa tích hợp với VNeID và các nền tảng dịch vụ công giúp người dân có thể đăng ký, sử dụng trên thiết bị thông minh. Nhiều chương trình hỗ trợ giúp người dân được cấp CKS miễn phí để giao dịch với cơ quan Nhà nước. Ý nghĩa của phổ cập CKS là nâng cao hiệu quả giao dịch điện tử, đảm bảo an toàn bảo mật và giảm chi phí, cho phép cá nhân, doanh nghiệp thực hiện mọi thủ tục hành chính, giao dịch kinh tế - xã hội trên môi trường số với tính pháp lý cao, tiết kiệm thời gian, công sức, thay thế hoàn toàn hồ sơ giấy tờ, thúc đẩy CĐS.
Mỗi ngày, có hàng ngàn văn bản, hợp đồng, hồ sơ được ký mà không cần bút mực, giấy tờ; có những “cú chạm” nhỏ trên màn hình điện thoại rút ngắn quãng đường núi, giảm thời gian chờ đợi trước cửa công sở. Khi CKS trở nên phổ biến, lợi ích ấy sẽ không chỉ đến với cơ quan, doanh nghiệp, mà đến với từng người dân – từ phố thị đến bản làng. CKS không chỉ là tên gọi của một công nghệ, mà còn là lời nhắc về một nếp làm việc mới: nhanh hơn, minh bạch hơn, thuận tiện hơn trong đời sống số.













