Chuyển đổi số mở đường cho nông sản miền núi vươn xa

Các chuyên gia cho rằng, nếu dữ liệu của hợp tác xã được kết nối với hệ thống quốc gia, nông nghiệp số Việt Nam sẽ thực sự cất cánh, mở ra hướng phát triển bền vững cho vùng sâu, vùng xa.

Chuyển đổi số giúp doanh nghiệp và nông dân đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế

Chuyển đổi số giúp doanh nghiệp và nông dân đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế

Hành trình số hóa của những người nông dân mới

Giữa vùng núi Tràng Định (Lạng Sơn), nơi sinh sống của cộng đồng người Tày, Nùng, Dao, Hoa…, câu chuyện về hành trình chuyển đổi số của Hợp tác xã (HTX) Bản Quyền do bà Trần Thị Thu Lan làm Giám đốc đang trở thành minh chứng sống động cho nỗ lực vươn lên của nông sản miền núi trong kỷ nguyên số.

“Nhờ nền tảng công nghệ, bà con chúng tôi có thể quảng bá, giới thiệu đặc sản của địa phương đến người tiêu dùng trong và ngoài nước mà không cần rời khỏi bản làng. Giờ đây, ngay cả khi ở trên núi, chúng tôi vẫn có thể bán hàng cho khách tận Sài Gòn hay Hà Nội, thậm chí cả quốc tế”, bà Lan chia sẻ.

Từ sau đại dịch Covid-19, khi đầu ra nguyên liệu thô gặp nhiều khó khăn, HTX Bản Quyền đã mạnh dạn chuyển hướng sang chế biến sâu, phát triển các sản phẩm trà và dược liệu từ hoa hồi, quế – những loại cây đặc sản của Lạng Sơn. Các sản phẩm được quảng bá và tiêu thụ trên nhiều sàn thương mại điện tử như TikTok, Zalo, Facebook, Shopee…, giúp mở rộng thị trường và gia tăng giá trị nông sản địa phương.

Tuy nhiên, hành trình số hóa của các HTX miền núi chưa bao giờ dễ dàng. “Chúng tôi mới ở bước đầu làm quen với công nghệ, thiếu nhân lực có kỹ năng số và kiến thức thị trường. Mong muốn lớn nhất là được hỗ trợ đào tạo, tập huấn, và kết nối với các chuyên gia để chuyển đổi số thực chất hơn”, bà Lan kiến nghị.

Từ câu chuyện ở Lạng Sơn, có thể thấy chuyển đổi số không chỉ là ứng dụng phần mềm, mà là quá trình thay đổi nhận thức, thói quen và cách quản trị sản xuất. Bài học này được thể hiện rõ qua kinh nghiệm của bà Vũ Thị Liễu, CEO Công ty CP Nghiên cứu sản xuất và phát triển sợi Eco – đơn vị chuyên xuất khẩu sợi từ lá dứa sang Nhật Bản.

“Khách hàng Nhật yêu cầu truy xuất nguồn gốc đến từng chi tiết: lá dứa thu từ nông hộ nào, ai tách sợi, pallet đóng gói số mấy, nhập kho ngày nào. Ban đầu, chúng tôi phải đi từng HTX để tra lại thủ công, rất mất thời gian. Nhưng chính điều đó khiến chúng tôi hiểu rằng chuyển đổi số không bắt đầu từ phần mềm, mà từ dữ liệu chính xác do người sản xuất tạo ra”, bà Liễu nói.

Theo bà, nhiều người vẫn nghĩ chuyển đổi số là việc “xa xỉ”, nhưng thực chất đó là việc rèn luyện thói quen ghi chép, lưu trữ và cập nhật dữ liệu mỗi ngày. “Cũng giống như tập thể dục – ai cũng biết tốt, nhưng không phải ai cũng duy trì được. Chuyển đổi số trong nông nghiệp phải bắt đầu từ những việc nhỏ nhất, và phải do chính người nông dân thực hiện”, bà nhấn mạnh.

Tuy nhiên, việc duy trì dữ liệu số trong nông nghiệp vẫn gặp vô vàn thách thức. Ngay cả một doanh nghiệp như Eco cũng phải tự mày mò chọn phần mềm, tự tạo quy trình nhập liệu, và đến nay phần lớn dữ liệu vẫn được lưu bằng file Excel thủ công. “Chúng tôi rất mong có một nền tảng dùng chung hoặc hướng dẫn kỹ thuật cụ thể để doanh nghiệp và HTX cùng kết nối dữ liệu với hệ thống quốc gia”, bà Liễu đề xuất.

Không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều HTX trong nước cũng đang từng bước “số hóa”. HTX 3T Nông sản Cao Phong (Phú Thọ), do bà Vũ Thị Lệ Thủy làm Giám đốc đã ứng dụng phần mềm nhật ký điện tử Phafarm để quản lý sản xuất và truy xuất nguồn gốc cam Cao Phong. Sau ba năm, phần mềm giúp HTX quản lý hiệu quả, minh bạch quy trình, dù vẫn còn nhiều khó khăn do thiếu sóng ổn định và chi phí duy trì cao.

Song, thách thức lớn hơn là cạnh tranh không bình đẳng. Trong khi HTX phải tuân thủ tiêu chuẩn ISO 22000, chịu thuế, phí và truy xuất đầy đủ, thì nông dân sản xuất tự do vẫn dễ dàng bán hàng với giá thấp hơn. Hàng giả, hàng nhái thương hiệu “Cam Cao Phong” tràn lan khiến người tiêu dùng mất niềm tin, làm giảm uy tín nông sản có chỉ dẫn địa lý.

“Có tới 80% người tiêu dùng trong nước vẫn mua hàng ở chợ truyền thống, quan tâm đến giá nhiều hơn chất lượng. Nếu không có chính sách bảo hộ thương hiệu và hỗ trợ truyền thông, những người làm bài bản sẽ rất thiệt thòi”, bà Thủy bày tỏ.

Kiến trúc số mới cho khu vực hợp tác xã

Theo TS. Trần Duy Ninh - Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), nông nghiệp là lĩnh vực “khó nhưng đáng làm nhất” trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. “Nếu các HTX vùng sâu, vùng xa có thể dùng nền tảng số để bán sản phẩm ra thế giới, thì đó mới là thành công thật sự của chuyển đổi số Việt Nam”, ông Ninh nói.

Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất hiện nay của khu vực HTX là thiếu nhân lực công nghệ thông tin. Do đó, mô hình doanh nghiệp đồng hành cùng HTX được xem là giải pháp khả thi. Nhiều doanh nghiệp đã trực tiếp tài trợ thiết bị, cử kỹ sư về địa phương hướng dẫn và đào tạo kỹ năng số cho nông dân.

Về lâu dài, ông Ninh cho rằng cần xây dựng hạt nhân công nghệ ngay trong HTX. Từ năm 2026, Chính phủ định hướng hình thành xã hội công dân số, trong đó mỗi người dân đều có kỹ năng sử dụng dịch vụ số cơ bản. Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phối hợp triển khai nền tảng đào tạo trực tuyến kỹ năng số cho người dân, dự kiến vận hành trong thời gian tới. Các HTX có thể tiếp cận nền tảng này để đào tạo đội ngũ “công dân số” tại chỗ.

Đặc biệt, Cục Chuyển đổi số quốc gia đang đề xuất xây dựng kiến trúc số riêng cho khu vực HTX, nằm trong khung dữ liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Hệ thống này sẽ giúp kết nối dữ liệu, quản trị và giao dịch xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, đồng thời hình thành nền tảng “Hợp tác xã số” dùng chung, giúp các HTX không phải tự thuê hay phát triển phần mềm riêng lẻ.

Đồng quan điểm, TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực HTX, vẫn còn chậm so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay các quốc gia châu Âu.

Để thúc đẩy tiến trình này, theo ông Thịnh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai nền tảng số dùng chung cho khu vực kinh tế tập thể, dự kiến đưa vào vận hành từ tháng 6/2026. Nền tảng sẽ kết nối dữ liệu về truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, tiêu chuẩn sản xuất, logistics và hợp đồng điện tử, tạo hệ sinh thái số khép kín cho nông nghiệp Việt Nam.

Bộ cũng đang hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài nước để xây dựng khung dữ liệu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và cơ sở pháp lý cho chuyển đổi số.

“Muốn chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp thành công, cần hoàn thiện hành lang pháp lý về liên kết chuỗi, xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, nâng cao năng lực HTX – trung tâm của chuỗi liên kết, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ”, ông Thịnh nhấn mạnh.

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/chuyen-doi-so-mo-duong-cho-nong-san-mien-nui-vuon-xa-173209.html