Công tác phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2021 – 2025
Dựa vào các tài liệu thứ cấp và từ kết quả tìm hiểu việc thực hiện chính sách dân tộc trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở Đắk Nông, bài viết cho thấy kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, cần có giải pháp để nâng cao đời sống của các tộc người thiểu số ở Đắk Nông hiện nay.
1. DẪN NHẬP
Tỉnh Đắk Nông có 40 dân tộc cùng sinh sống, tổng số hộ là 167.434 hộ với dân số là 691.506 người; trong đó, các tộc người thiểu số có 47.678 hộ, với 221.098 người, chiếm tỷ lệ 31,93% so với dân số toàn tỉnh, có 3 dân tộc thiểu số tại chỗ (M’Nông, Mạ, và Ê Đê) có 15.848 hộ, với 71.754 người chiếm 10,37% so với dân số toàn tỉnh và 32,45% so với tổng số dân tộc thiểu số (Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông, 2023). Những năm qua, nhiều chương trình chính sách của nhà nước liên quan đến các tộc người thiểu số đã được thực hiện ở tỉnh Đắk Nông. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; dự án nâng cao năng lực giảm nghèo, nhân rộng mô hình giảm nghèo; chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã, thôn đặc biệt khó khăn; các chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, đất ở, đất sản xuất; các chính sách an sinh xã hội; các chương trình tín dụng vay vốn đối với hộ nghèo, cận nghèo; các dự án, mô hình về khuyến nông, khuyến lâm; chương trình định canh, định cư; các chương trình mục tiêu quốc gia: về nước sạch và vệ sinh môi trường, đưa thông tin về cơ sở, về việc làm và dạy nghề… Trong đó, đáng chú ý là Chương trình số 26-CTr/TU, ngày 31/8/2021 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII về nâng cao đời sống, vật chất - tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số năm 2021-2025; Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/12/2021 của Tỉnh ủy về công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1437/QĐ-UBND, ngày 22/8/2022 về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Kế hoạch số 219/KH-UBND, ngày 11/4/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2023… Trên cơ sở tổng hợp và phân tích các tài liệu thứ cấp, bài viết đưa ra một số kiến nghị giúp nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Một số thành tựu đạt được
2.1.1. Công tác giảm nghèo Công tác giảm nghèo được tỉnh Đắk Nông tập trung triển khai, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó hằng năm tỷ lệ hộ nghèo luôn giảm sâu. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, tỉnh Đắk Nông đặt mục tiêu giảm nghèo chung là 2%/năm; giảm nghèo dân tộc thiểu số tại chỗ 4%/năm. Tuy nhiên, năm 2021, 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy tăng tốc, áp dụng các nguồn vốn để phấn đấu đạt mục tiêu giảm 3% tỷ lệ hộ nghèo chung và 5% hộ dân tộc thiểu số tại chỗ. Cụ thể - Về tình hình giảm nghèo: Kết quả rà soát tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2021 cho thấy toàn tỉnh chiếm tỷ lệ 11,19%. Trong đó, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 27,98%, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm tỷ lệ 32,81%. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2022 chiếm tỷ lệ hơn 7,9%. Trong đó, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 20,11%, hộ nghèo dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm tỷ lệ hơn 24,5%. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2023 chiếm tỷ lệ hơn 5,18%. Trong đó, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 16,42%, hộ nghèo dân tộc thiểu số tại chỗ là 16,42%. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2024 chiếm tỷ lệ hơn 2,99%. Trong đó, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số là 7,54%, hộ nghèo dân tộc thiểu số tại chỗ là 10,27%. Bảng biểu kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng giai đoạn 2021-2025

Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, 2025.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 16/12/2021 về công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh giảm bình quân mỗi năm 2,73% (từ 11,19%) cuối năm 2021 xuống còn 2,99°% cuối năm 2024), số hộ giảm tương ứng là 13.127 hộ (từ 18.290 cuối năm 2021 hộ xuống chỉ còn 5.163 hộ cuối năm 2024) Tỉnh ủy Đắk Nông, 2025).
Tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giảm bình quân mỗi năm 7,51% (từ 32,81%) cuối năm 2021 xuống còn 10,27% cuối năm 2024), số hộ giảm tương ứng là 3.484 hộ (từ 5.187 hộ cuối năm 2024 xuống còn 1.703 hộ cuối năm 2024) (Tỉnh ủy Đắk Nông, 2025).
Để đạt được những kết quả trên, Tỉnh đã triển khai nhiều phương án, giải pháp giúp người nghèo, hộ nghèo nâng cao mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong đó, việc đa dạng hóa sinh kế cho người dân trong công tác giảm nghèo được triển khai đồng bộ đã tạo động lực giúp người dân vươn lên thoát nghèo, góp phần thay đổi diện mạo các thôn, bon, buôn nông thôn trong toàn tỉnh.
+ Về tình hình thực hiện chính sách giảm nghèo: để chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU về công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030; Chương trình số 26-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII về nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho người dân, đồng bào dân tộc thiểu số. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành nhiều nghị quyết để thực hiện chương trình giảm nghèo, chú trọng giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số như Nghị quyết về chính sách hỗ trợ lãi suất đối với hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; Nghị quyết quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách nhà nước và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Nghị quyết Quy định một số chính sách thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2023 - 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông…
Đặc biệt, qua 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội và 3 năm triển khai Kết luận số 06- KL/TW của Ban Bí thư, nguồn vốn tín dụng chính sách đã tác động tích cực đến mọi mặt đời sống hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác. Với chính sách này, trên 90% hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận được với nguồn vốn. Đã thực hiện hỗ trợ cho 2.753 lượt hộ với 15,318 tỷ đồng (Nguồn: Tỉnh ủy Đắk Nông, Báo cáo số 519 - BC/TU, ngày 4/6/2024 về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội).
Bên cạnh đó, nguồn lực tín dụng từ chính sách ưu đãi của Chính phủ để thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng tăng, bình quân tăng trưởng hàng năm đạt trên 8% trở lên…, trên 62.000 lượt học sinh, sinh viên được vay vốn phục vụ học tập, xây dựng trên 156.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường theo chuẩn quốc gia, xây được 3.123 căn nhà cho hộ nghèo không có nhà ở (Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, 2024)… qua đó, góp phần cải thiện đời sống người dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Giai đoạn 2021 - 2025, Trung ương đặt ra chỉ tiêu giảm nghèo khu vực Tây Nguyên bình quân hằng năm duy trì giảm từ 1% - 1,5%, tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3% (Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025; Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045). Trên cơ sở đó, năm 2025, Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành Kế hoạch 68/KH-UBND ngày 5/02/2025 về việc thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo bền vững năm 2025 trên địa bàn tỉnh và Kế hoạch 100/KH-UBND ngày 20/02/2025 về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, xác định mục tiêu đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo chung toàn tỉnh giảm từ 1% trở lên, riêng tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ giảm từ 2% trở lên.
Ngoài việc thực hiện các chính sách giảm nghèo do Chính phủ ban hành, thời gian qua, tỉnh Đắk Nông đã ban hành những chính sách đặc thù riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, như: lồng ghép nguồn lực của 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới) nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện bằng các hoạt động gắn với chức năng quản lý ngành, lĩnh vực, địa phương để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra; Chương trình nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số, giai đoạn 2021-2025; Chương trình kết nghĩa, đỡ đầu giữa cơ quan, đơn vị với các bon, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề trình độ trung cấp, cao đẳng; Chính sách hỗ trợ lãi suất cho hộ nghèo là đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ để cải thiện nhà ở, phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế; Chính sách hỗ trợ đất ở và đất sản xuất, hỗ trợ về bảo hiểm y tế, hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ nước sinh hoạt, nhà vệ sinh, hỗ trợ điện sinh hoạt, hỗ trợ kết nối các dịch vụ viễn thông, trợ giúp đột xuất... Bên cạnh đó, các huyện ủy, thành ủy lựa chọn, xây dựng từ 01-02 địa bàn trọng điểm bon, buôn đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ để tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững.
Hiện nay, tỉnh đang tập trung thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia với tổng số vốn đầu tư giai đoạn 2021-2025 là 2.788,224 tỷ đồng. Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 1.144,899 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là 598,646 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là 1.044,679 tỷ đồng (Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, 2024).
Theo Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU, trong tổng số vốn tập trung cho giảm nghèo bền vững, tỉnh tập trung thực hiện các dự án, hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế cho người nghèo. Tỉnh thực hiện 2 đề án giảm nghèo tại huyện Đắk Glong, Tuy Đức với tổng kinh phí khoảng 450 tỷ đồng. Việc hỗ trợ sinh kế cho hộ nghèo, cận nghèo cũng được Hội Nông dân, Trung tâm Khuyến nông, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh… triển khai đạt kết quả tích cực. Trong đó, nhiều mô hình mang lại hiệu quả và được nhân rộng như: chăn nuôi gà lai chọi.
Bên cạnh đó, nguồn lực tín dụng từ chính sách ưu đãi của Chính phủ để thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ngày càng tăng, bình quân tăng trưởng hàng năm đạt trên 8% trở lên, đưa dư nợ từ 29.155 triệu đồng lên 4.011,456 tỷ đồng, đến năm 2024 đã tăng 137 lần so với năm 2004; giúp hơn 340.000 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được tiếp cận với nguồn vốn, trên 62.000 lượt học sinh, sinh viên được vay vốn phục vụ học tập, xây dựng trên 156.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường theo chuẩn quốc gia, xây được 3.123 căn nhà cho hộ nghèo không có nhà ở… (Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, 2024). Đến nay, có 05/07 xã biên giới đã về đích nông thôn mới, có 07/07 xã biên giới đạt tiêu chí nông thôn mới về nhóm hạ tầng kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh.
Những phân tích trên cho thấy, tỉnh Đắk Nông đã thực hiện hiệu quả các chính sách giảm nghèo tạo đòn bẩy, hỗ trợ người dân giảm nghèo đa chiều bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
2.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số
Là vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nguồn nhân lực dân tộc thiểu số là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Việc tạo điều kiện cho các yếu tố về khả năng, năng lực, trí tuệ và phẩm chất tinh thần của người dân tộc thiểu số được phát triển, nhất là tạo môi trường giáo dục thuận lợi để nguồn nhân lực này có điều kiện phát huy hết khả năng, năng lực của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu cần thiết cả trước mắt và lâu dài ở Đắk Nông.
Tính đến hết năm học 2023-2024, toàn tỉnh Đắk Nông có 359 cơ sở giáo dục (trong đó có 8 trường phổ thông dân tộc nội trú và 2 trường phổ thông dân tộc bán trú) với 185.581 em, trong đó: có 60.723 học sinh dân tộc thiểu số, chiếm 32,7% tổng số học sinh toàn tỉnh {Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông: Báo cáo số 118/BC-UBND, ngày 28/02/2024 về tổng kết, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của tỉnh Đắk Nông trong 20 năm qua (2004 - 2024) và định hướng phát triển trong thời gian tới}.
Số cán bộ quản lý, giáo viên toàn ngành là 9.739 người, trong đó cán bộ quản lý 835; giáo viên 8.904, (Tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn đạt 95,63%) (nguồn :Tỉnh ủy Đắk Nông, Báo cáo số 531-BC/TU, ngày 28/6/2024 về tổng kết 20 năm thực hiện chỉ thị số 40, ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về viễ xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục). Đội ngũ giáo viên ngày càng được chuẩn hóa về kiến thức, kỹ năng, phương pháp dạy học. Các chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở các trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được thực hiện khá đầy đủ như: phụ cấp ưu đãi, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...
Chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục tiếp tục có những chuyên biến rõ nét và toàn diện ở các cấp học. Tỷ lệ các tộc người thiểu số hoàn thành chương trình tiểu học là 98,86%; từ 10 tuổi trở lên biết chữ là 95,01%; tỷ lệ trẻ em các tộc người thiểu số nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học là: 98,70%.
Bên cạnh việc bảo đảm dạy, học hệ thống trường, lớp học ở các vùng sâu, vùng xa được đầu tư, xây dựng, toàn tỉnh có 8 trường phổ thông dân tộc nội trú trung học cơ sở, trung học phổ thông, trong đó có 1 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh. Số học sinh học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú chiếm tỷ lệ 10% học sinh các tộc người thiểu số cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông của toàn tỉnh. Ngoài ra, toàn tỉnh có 2 trường phổ thông dân tộc bán trú, trong đó 1 trường cấp tiểu học và 1 trường cấp trung học cơ sở với quy mô 11 lớp học. Các phòng học, ký túc xá, khu sinh hoạt và nhà ăn không ngừng được nâng cấp để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và học tập cho học sinh các tộc người thiểu số. Điều này không chỉ giúp học sinh có môi trường học tập tốt hơn mà còn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục, thu hút nhiều em học sinh các tộc người thiểu số vùng sâu, vùng xa tiếp tục đến trường.
Ngoài ra, việc chú trọng thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chế độ, chính sách cho học sinh các tộc người thiểu số với việc hàng năm cấp phát đầy đủ sách giáo khoa, vở viết, hỗ trợ tiền ăn... Nhờ quan tâm hỗ trợ tích cực về mọi mặt nên chất lượng giáo dục học sinh các tộc người thiểu số tỉnh Đắk Nông ngày càng chuyển biến.
Đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, toàn tỉnh hiện có 15 cơ sở tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Trong giai đoạn 2019-2024, đã tổ chức đào tạo nghề cho trên 32.600 người (bình quân mỗi năm đào tạo các trình độ giáo dục nghề nghiệp cho trên 5.400 người), học sinh, sinh viên được đào tạo nghề các tộc người thiểu số chiếm tỷ lệ trên 32% (nguồn: Tỉnh ủy Đắk Nông, Báo cáo số 532-BC/TU, ngày 28/6/2024 về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao). Qua đó, giúp nâng cao tay nghề, giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương…
2.1.3. Chăm lo sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số
Các hoạt động đảm bảo an sinh xã hội về y tế đối với người đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai và duy trì như việc phối hợp các tổ chức từ thiện khám cấp thuốc miễn phí. Cụ thể như sự phối hợp giữa Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh với Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh tổ chức khám bệnh, cấp phát thuốc, tặng quà cho đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, hộ nghèo, khó khăn ở xã Đắk Wil, huyện Cư Jút; Câu lạc bộ Thầy thuốc họ Ngô, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP. Hồ Chí Minh), Liên chi hội Tim mạch nhi và Tim bẩm sinh TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Hội đồng họ Ngô Việt Nam, Báo Đắk Nông, Sở Y tế Đắk Nông, Ủy ban nhân dân các huyện Cư Jút và Krông Nô khám bệnh, tầm soát bệnh tim bẩm sinh miễn phí;… chính sách về chăm sóc sức khỏe nhân dân, tiêm chủng miễn phí cho nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn được quan tâm và thực hiện đúng quy định của nhà nước.
Công tác truyền thông nâng cao nhận thức người dân tộc thiểu số về y tế - dân số kế hoạch hóa gia đình luôn được chú trọng... Bên cạnh đó việc triển khai thực hiện các nội dung Dự án 7 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người đồng bào dân tộc thiểu số.
Đặc biệt, tỉnh thực hiện chính sách ưu tiên, chủ trương bố trí, điều chuyển các bác sĩ ở trung tâm y tế huyện, các bác sĩ cử tuyển về tuyến y tế xã phường, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách thu hút và chính sách ưu đãi ngành 140%. Đồng thời, tăng cường công tác xã hội hóa các hoạt động y tế, giúp người dân vùng dân tộc thiểu số có điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng, kỹ thuật cao, nâng cao sức khỏe…
2.1.4. Quan tâm lực lượng cốt cán, người có uy tín trong vùng dân tộc thiểu số
Nhằm phát huy hơn nữa vai trò “cầu nối” giữa Đảng với dân nhân, tỉnh đã phê duyệt danh sách người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số là 310 người (293 nam và 16 nữ), thành phần gồm: Bí thư chi bộ, già làng, trưởng dòng họ, trưởng thôn, bản, cán bộ nghỉ hưu, sư sãi, chức sắc tôn giáo, nghệ nhân các tộc người thiểu số, nhân sĩ, trí thức các tộc người thiểu số, thầy mo, thầy cúng, thầy lang, người sản xuất kinh doanh... Người có uy tín được hưởng các chế độ, chính sách theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg, ngày 06/3/2018; Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg, ngày 23/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, hàng năm, hàng năm, Ban Dân tộc tỉnh ký kết hợp đồng với Bưu điện tỉnh về cung ứng, vận chuyển, phát báo Đắk Nông, báo Dân tộc và Phát triển đến toàn thể người có uy tín trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, Ban Dân tộc tỉnh phối hợp với các Sở, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tổ chức hội nghị cung cấp thông tin, phổ biến chính sách pháp luật đối với người có uy tín trong các tộc người thiểu số; hướng dẫn kỹ năng hòa giải cơ sở, kỹ năng vận động nhân dân.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp kịp thời tổ chức thăm hỏi, tặng quà khi gia đình người có uy tín gặp khó khăn, bị ốm đau hoặc qua đời theo quy định; biểu dương, tôn vinh, khen thưởng người có uy tín có thành tích trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tổng kinh phí được bố trí để thực hiện chính sách với người có uy tín trong các tộc người thiểu số, giai đoạn 2018-2022 là 5.682 triệu đồng (trong đó, năm 2018 là 921 triệu đồng; năm 2019 là 1.144 triệu đồng; năm 2020 là 1.175 triệu đồng; 2021 là 1.167 triệu đồng; năm 2022 là 1.275 triệu đồng)7 (Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông, 2024).
Bảo tồn văn hóa truyền thống cho các tộc người thiểu số
Những năm qua, cấp ủy, chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển kinh tế - xã hội, phát triển du lịch như Đề án bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lễ hội - hoa văn - cồng chiêng và nhạc cụ của các dân tộc tại chỗ tỉnh Đắk Nông; Đề án bảo tồn và phát huy giá trị văn học dân gian của các dân tộc thiểu số đến năm 2030; Tỉnh ủy ban hành 02 chương trình hành động về “Sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các loại hình di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ thất truyền của các dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Nông” và “Phát triển du lịch và du lịch gắn với Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông giai đoạn 2021-2025”, qua đó, giá trị văn hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ được bảo tồn mà còn được quảng bá, và trở thành nguồn sinh kế cho chính cộng đồng.
Toàn tỉnh hiện có 165 lễ hội và nghi lễ của đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó, dân tộc M'nông có 66 lễ hội, dân tộc Mạ có 50 lễ hội, dân tộc Êđê có 42 lễ hội, dân tộc Tày có 2 lễ hội, dân tộc Mông có 03 Lễ hội, dân tộc Nùng có 1 Lễ hội. Từ năm 2004 đến nay, toàn tỉnh đã tổ chức phục dựng 53 lượt lễ hội, nghi lễ truyền thống đã được phục dựng, duy trì hàng năm, thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc, du khách trong và ngoài tỉnh tham dự, thưởng lãm (Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Đắk Nông, 2023).
Bên cạnh đó, tỉnh tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong nhận diện, xác định các hủ tục, phong tục, tập quán lạc hậu, chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, dân chủ, đoàn kết và nhân văn trong trong từng cộng đồng thôn bản, khu dân cư…
2.2. Những hạn chế trong thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội các tộc người thiểu số ở Đắk Nông
Bên cạnh những thành tựu, việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội các tộc người thiểu số ở Đắk Nông
vẫn còn những “nút thắt” như:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền về ý nghĩa của các chủ trương, đường lối của Đảng, chương trình, chính sách của Nhà nước về công tác dân tộc; nâng cao ý thức tự lực, tự cường trong các tộc người thiểu sốchưa được quan tâm đúng mức, một bộ phận trong đồng bào vẫn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa chủ động vươn lên; chưa nắm bắt được yêu cầu, chưa hiểu rõ mục đích và nội dung chính sách, nên một số nơi gặp khó khăn trong triển khai thực hiện (Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông, Báo cáo số 1288/BC-BDT, ngày 8/12/2013 về tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh Đắk Nông).
Thứ hai, kết quả giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, còn xảy ra tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo mới; bởi Đắk Nông là tỉnh có điểm xuất phát thấp về điều kiện kinh tế - xã hội, địa hình đồi núi phức tạp, tỷ lệ các tộc người thiểu số cao, đặc biệt hộ nghèo các tộc người thiểu số tại chỗ chiếm tỷ lệ rất cao (bên cạnh đó hằng năm dân di cư tự do đến tỉnh Đắk Nông đa số là hộ nghèo, hộ mới tách ra từ hộ nghèo, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong công tác giảm nghèo hằng năm tại tỉnh. Tuy địa phương đã tập trung ưu tiên nguồn lực và chính sách giảm nghèo cho vùng sâu, vùng xa, vùng có đông các tộc người thiểu số, nhưng đến cuối năm 2024 vẫn còn 2 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao là huyện Tuy Đức (đến cuối 2023 tỷ lệ hộ nghèo chung của huyện còn 18,78%, trong đó hộ nghèo các tộc người thiểu số là 31,39%) và Đắk Giong (đến năm 2023 tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện còn 13,44%, trong đó hộ các tộc người thiểu số là 22,24%) (Nguồn: Tỉnh ủy Đắk Nông, Báo cáo số 630/BC-TU, ngày 03/01/2025, về sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/12/2021, về công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030).
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng nhiều nơi xuống cấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực thấp, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập; chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa tuy đã được nâng lên nhưng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ còn nhiều khó khăn; tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn xảy ra…
Thứ ba, trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, vẫn còn một số chính sách chưa thật phù hợp với tình hình thực tế, vốn đầu tư ít, dàn trải nhất là lĩnh vực nông nghiệp, vốn cho khuyến nông, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ còn quá ít. Một số chương trình, dự án triển khai còn chậm, nhiều chính sách chưa đạt được mục tiêu đề ra, điển hình như trong 22 mục tiêu chính của Chiến lược dân tộc giai đoạn 2021- 2025, do Ủy ban Dân tộc đề nghị báo cáo, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông chỉ triển khai thực hiện đạt 11 mục tiêu trong năm 2023 (đạt 50% mục tiêu phấn đấu đến năm 2025) và vẫn còn 11 mục tiêu chưa đạt, mới đảm bảo các tiêu chí hơn 70% so với từng mục tiêu cụ thể đề ra (nguồn?).
Thứ tư, một số vấn đề bức xúc như thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt giải quyết chưa hiệu quả; tiến độ giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp còn chậm; tình hình vi phạm pháp luật vẫn còn xảy ra ở một số nơi, nhất là tình trạng phá rừng làm nương rẫy trái phép; đào tạo nghề nông thôn chưa thực sự mang lại hiệu quả tạo sinh kế bền vững giúp đồng bào thoát nghèo (Nguồn?).
Nguyên nhân của những hạn chế: xuất phát điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thấp, chất lượng nguồn nhân lực thấp; cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu việc làm, đói nghèo, thiên tai, bệnh tật thường xảy ra và đang là thách thức lớn; Nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong huy nguồn lực thực hiện chính sách còn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế; các thế lực thù địch liên tục lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vùng dân tộc thiểu số vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn về an ninh, trật tự….
3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Ở ĐẮK NÔNG HIỆN NAY
Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác dân tộc; truyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo; kiên trì thực hiện các quan điểm của Đảng trong Nghị quyết 24, ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác dân tộc và các nghị quyết Đại hội của Đảng, luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị.
Hai là, phát triển sản xuất, đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo đồng bào vùng dân tộc thiểu số, theo đó:
+ Tập trung giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; đẩy nhanh việc hoàn thành các dự án định canh, định cư gắn với quy hoạch sắp xếp, ổn định dân cư, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng di cư tự phát.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; có chính sách chuyển đổi nghề, tạo việc làm, để ổn định và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề và xuất khẩu lao động là người dân tộc. Tiếp tục thực hiện tốt công tác khuyến nông, lâm, ngư nghiệp và hỗ trợ dịch vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Xây dựng tổ hợp, hợp tác xã phát triển kinh tế - xã hội ở các thôn/bon vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quản lý được dịch bệnh, nâng cao năng suất và chất lượng, hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp. Xây dựng chính sách về hỗ trợ, đầu tư phát triển ngành nghề bảo quản và chế biến, tiêu thụ sản phẩm của đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Tạo cơ hội bình đẳng để đồng bào tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ dịch vụ, phúc lợi xã hội; tạo môi trường thuận lợi để thu hút mọi nguồn lực vào phát triển nông nghiệp, nông thôn nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động người dân tộc; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu và tranh chấp đất sản xuất, đất ở cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
Ba là, phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số:
+ Phát triển toàn diện văn hóa dân tộc thiểu số: Xây dựng chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số; xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số gắn với di tích lịch sử ở từng vùng, từng địa phương; đầu tư, sửa chữa các di tích tương xứng với giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc. Khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch cộng đồng, góp phần tạo công ăn việc làm vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe: Nâng cao năng lực, chất lượng khám chữa bệnh và thực hiện các dịch vụ y tế của trạm y tế xã, bệnh viện tuyến huyện, bệnh viện tuyến tỉnh, bảo đảm công bằng, hiệu quả. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế khám chữa bệnh cho người dân tộc thiểu số. Phát triển mạnh y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn.
+ Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; chính sách bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc và bảo vệ quyền trẻ em; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp luật; nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.
Bốn là, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị: Tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở địa bàn dân tộc thiểu số, nhất là những nơi xung yếu về quốc phòng - an ninh; thực hiện tốt chính sách động viên, khuyến khích già làng, trưởng bản, người có uy tín tham gia công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, dự án vùng dân tộc thiểu số theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; vận động quần chúng nhân dân vùng dân tộc thiểu số chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ngăn chặn âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc thông qua “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa gạt, lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
4. KẾT LUẬN
Như vậy, trên cơ sở phân tích nhưng thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện các chính sách nhằm phát triển kinh tế, xã hội các tộc người thiểu số ở Đắk Nông, qua đó đề ra một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả, đồng bộ các chính sách dân tộc, đặc biệt, tiếp tục quan tâm, đầu tư phát triển toàn diện các tộc người thiểu số, miền núi, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và xác định đây là yếu tố có tính nền tảng để bảo đảm đại đoàn kết toàn dân tộc.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông. 2024. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông lần thứ IV.
2. Ban Dân tộc tỉnh Đắk Nông. Năm 2023. Báo cáo chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
3. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Nông. 2023. Đề cương truyên truyền kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương Văn hóa Việt Nam” (1943 - 2023).
4. Tỉnh ủy Đắk Nông. 2021. Chương trình số 26-CTr/TU, ngày 31/8/2021 về Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII về nâng cao đời sống, vật chất - tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số năm 2021-2025.
5. Tỉnh ủy Đắk Nông. 2021. Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/12/2021 về Công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030.
6. Tỉnh ủy Đắk Nông. 2025. Báo cáo số 630/BC-TU, ngày 03/01/2025, về Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. 2022. Quyết định số 1437/QĐ-UBND, ngày 22/8/2022 Về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. 2024. Tổng kết, đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của tỉnh Đắk Nông trong 20 năm qua (2004 - 2024) và định hướng phát triển trong thời gian tới.
9. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. 2023. Kế hoạch số 219/KH-UBND, ngày 11/4/2023 Về việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2023.
10. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. 2025. Kế hoạch 68/KH-UBND, ngày 5/02/2025 Về việc thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo bền vững năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
11. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. 2025. Kế hoạch 100/KH-UBND, ngày 20/02/2025 về thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững năm 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.












