Cuộc chiến thoát khỏi khủng hoảng khí hậu: Ý chí và tầm nhìn
Một nghiên cứu đã xem xét tính khả thi của các biện pháp như bơm sol khí vào tầng khí quyển, dựng 'rèm biển' hay làm dày thêm lớp băng biển..., còn được gọi là công nghệ địa kỹ thuật (geoengineering), 'tuyến phòng thủ cuối cùng' của nhân loại trước những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu, tuy nhiên, nhưng kết quả thu được không mấy khả quan.
Các nhà khoa học đã phân tích năm phương pháp địa kỹ thuật nhằm bảo vệ các chỏm băng ở cực, và tất cả đều đi kèm với những đánh đổi khổng lồ về môi trường cũng như chi phí. Hơn nữa, các mốc thời gian để triển khai những biện pháp này hoàn toàn không phù hợp với yêu cầu cấp bách là tránh để nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2°C so với mức trước thời kỳ tiền công nghiệp.

Năm 2024 được ghi nhận là năm nóng nhất trong lịch sử (và cũng là lần đầu tiên nhiệt độ toàn cầu tăng vượt ngưỡng 1,5°C), các nhà khoa học cùng nhiều chuyên gia đang cân nhắc đến những biện pháp ngày càng quyết liệt nhằm đảo ngược thảm họa môi trường đang cận kề, đặc biệt là ở các vùng cực, nơi tốc độ nóng lên diễn ra nhanh gấp bốn lần so với phần còn lại của thế giới. Những dự án khổng lồ này, được gọi chung là “địa kỹ thuật” (geoengineering), từ bơm sol khí vào khí quyển, cho đến xây dựng các "bức tường biển" khổng lồ, được nhiều người coi là nỗ lực cuối cùng để ngăn chặn thảm họa.

Các nhà khoa học đã công bố một thiết bị đột phá có thể chuyển đổi độ ẩm từ không khí trực tiếp thành điện mà không cần bộ phận chuyển động, để giảm sức nóng lên của Trái Đất.
Tuy nhiên, một nghiên cứu mới, do các nhà khí hậu học từ 38 viện nghiên cứu trên khắp thế giới thực hiện, cảnh báo rằng, những nỗ lực này có thể gây hại nhiều hơn là có lợi. Nếu khí hậu Trái Đất hoạt động như một chiếc đồng hồ tinh vi được hoàn thiện qua hàng tỷ năm tiến hóa, thì địa kỹ thuật giống như việc chỉnh sửa kích thước hoặc hình dạng của một bánh răng trong chiếc đồng hồ đó, một hành động có thể tạo ra chuỗi những tác động tiêu cực liên tiếp. Martin Siegert, tác giả chính của nghiên cứu từ ĐH Exeter đã công bố kết quả của nghiên cứu này trên tạp chí Frontiers in Science: “Những ý tưởng này thường xuất phát từ thiện ý, nhưng lại có nhiều thiếu sót. Là một cộng đồng, các nhà khoa học và kỹ sư khí hậu đang nỗ lực hết sức để giảm thiểu những tác hại của khủng hoảng khí hậu - nhưng triển khai bất kỳ một trong năm dự án ở vùng cực này nhiều khả năng sẽ phản tác dụng đối với các vùng cực khác và cả hành tinh”.
Hầu như mọi phần trong kế hoạch địa kỹ thuật đều đi kèm với những hệ lụy. Trước hết là chi phí khổng lồ cần để triển khai các chương trình này, có thể dễ dàng lên tới hàng chục tỷ đô la. Chưa kể, việc duy trì chúng ở một trong những môi trường khắc nghiệt nhất trên Trái Đất. Nhưng ngay cả khi những thách thức về tài chính và kỹ thuật khổng lồ này được vượt qua, thì vẫn còn những tác động môi trường nghiêm trọng.
Ví dụ, việc bơm sol khí vào tầng bình lưu, một phương pháp được chú ý nhiều nhất trong năm phương pháp có thể làm tổn hại tầng ozone, đồng thời thay đổi mạnh mẽ các mô hình khí hậu toàn cầu. Và nhiều ý tưởng địa kỹ thuật khác cũng đi kèm với một loạt các hệ lụy tương tự. Các "bức tường biển" có thể làm gián đoạn hành vi di cư của động vật, việc 'bón phân' cho đại dương có thể thay đổi chu trình hóa học của biển, và các phương pháp khác tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm thêm cho một môi trường tự nhiên, vốn đã rất nhạy cảm.
Tuy nhiên, ngay cả khi một (hoặc tất cả) những phương pháp này trở thành “viên đạn bạc” giải quyết biến đổi khí hậu, thì lượng tài nguyên khổng lồ và thời gian chuẩn bị cần thiết để triển khai chúng vẫn không phù hợp với tiến độ cấp bách nhằm tránh những hậu quả tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu.

Nhựa đang tràn lan khắp hành tinh, và các nhà khoa học đang cố gắng biến nó trở lại thành nguồn nhiên liệu hữu ích bằng cách nung nóng nó đến nhiệt độ rất cao. Các nhà khoa học hy vọng, việc sản xuất "dầu nhiệt phân" quy mô lớn có thể bổ sung hoặc thậm chí thay thế nhiên liệu hóa thạch trong tương lai.
“Giữa thế kỷ đang đến gần, nhưng thời gian, tiền bạc và chuyên môn của chúng ta đang bị phân tán giữa các nỗ lực đạt mức “phát thải ròng bằng 0” (net zero) và các dự án địa kỹ thuật còn mang tính suy đoán. Chúng tôi hy vọng có thể loại bỏ hoàn toàn phát thải vào năm 2050, miễn là chúng ta kết hợp nỗ lực để đạt mục tiêu không phát thải”, Siegert cho biết, trong một thông cáo báo chí. Điều đó có nghĩa là cần đầu tư không ngừng vào năng lượng xanh, tăng tốc độ điện hóa ở mọi nơi có thể, và nhanh chóng xây dựng toàn bộ cơ sở hạ tầng cần thiết để đáp ứng nhu cầu điện gia tăng. Một tin vui, theo các nhà khoa học, trong vòng 20 năm kể từ khi đạt mức “phát thải ròng bằng 0”, nhiệt độ toàn cầu sẽ ổn định. Và thật may mắn, chúng ta biết cách để đạt được mục tiêu đó, chỉ cần có ý chí và tầm nhìn để thực hiện.