Đại sứ Phạm Quang Vinh: Việt Nam đặt mình vào dòng chảy chính của thời đại
Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị giúp Việt Nam đặt mình trong tâm thế mới, đặt mình vào dòng chảy chính của thời đại để tranh thủ cơ hội, tạo sức mạnh cho sự phát triển của dân tộc.
Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử, mở ra giai đoạn phát triển mới cho Việt Nam (VN) trên hành trình hội nhập toàn diện, xác định hội nhập là động lực chiến lược để VN vững bước vào kỷ nguyên mới.
Như Tổng Bí thư Tô Lâm nhận định “Nghị quyết 59 đã nắm bắt được dòng chảy của sức mạnh thời đại và nâng tầm hội nhập quốc tế với những quan điểm mang tính cách mạng, tính đột phá, tính dân tộc, tính khoa học, tính thời đại cao”.
Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, khẳng định việc tăng cường, phát huy nội lực quốc gia trong hội nhập quốc tế là rất quan trọng, là yếu tố then chốt của then chốt. Tuy nhiên, phải kết hợp cả nội lực lẫn ngoại lực thì mới tạo ra những bước đột phá và phát triển bền vững.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến dự Lễ kỷ niệm 80 năm ngành ngoại giao Việt Nam. Ảnh: NHÂN DÂN
Tranh thủ tối đa những động lực tăng trưởng mới
. Phóng viên: Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động sâu sắc. Từ những chủ trương chiến lược được đề ra, chúng ta có thể đặt ra những kỳ vọng lớn nào cho quá trình hội nhập và phát triển của VN, đặc biệt trong các lĩnh vực mới như đầu tư chất lượng cao, kinh tế số, kinh tế xanh, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo?
+ Đại sứ Phạm Quang Vinh: Tôi cho rằng có hai kỳ vọng lớn đặt ra từ Nghị quyết 59.
Thứ nhất là về quá trình hội nhập quốc tế nói chung để đưa VN lên một tầm cao mới. Thực tế, Nghị quyết 59 là sự kế thừa thành quả của gần 40 năm đổi mới và hội nhập của đất nước. Nghị quyết đã nâng tầm hội nhập quốc tế với một tư duy mới, chương trình hành động mang tính đột phá, khoa học, đậm đà bản sắc dân tộc và phù hợp với xu thế để đưa VN vững bước tiến vào một kỷ nguyên mới.
Sau 40 năm, VN đã có một tâm thế và năng lực mới để tự tin hội nhập quốc tế. Với vị thế mới này, chúng ta một mặt có thể tranh thủ được sự ủng hộ ở cấp độ cao hơn từ bạn bè quốc tế; mặt khác, có đủ năng lực để tham gia vào những phân khúc chất lượng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu và đóng góp một cách thực chất vào công việc chung của thế giới.
Sự đóng góp này không chỉ dừng lại ở việc tham gia một cách chủ động, tích cực như trước đây, mà còn là tham gia vào việc kiến tạo những sân chơi mới, đặc biệt trong các lĩnh vực tiên phong như trí tuệ nhân tạo (AI), chuyển đổi số…

Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Ảnh: TIẾN TUẤN
Khi nâng tầm hội nhập quốc tế, ta phải gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 - hai mốc quan trọng hướng tới một VN thịnh vượng. Đối ngoại, hội nhập quốc tế phải phục vụ cho mục tiêu này.
Kỳ vọng thứ hai, nhìn từ góc độ kinh tế, là việc tập trung vào phát triển kinh tế chất lượng cao dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 59 chỉ ra rằng sau gần 40 năm đổi mới, năng lực phát triển trong nước của VN đã được nâng lên, có nền tảng để bứt phá mạnh mẽ hơn.
Bộ Chính trị ban hành “bộ tứ trụ cột” với hàm ý đưa VN vào kỷ nguyên mới, phát triển mạnh mẽ và đột phá hơn, nhất là về kinh tế. Chúng ta kết hợp các động lực tăng trưởng cũ nhưng phải tranh thủ tối đa những động lực tăng trưởng mới như chuyển đổi số dựa trên đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh cùng những mô hình tăng trưởng mới khác…


Tổng Bí thư Tô Lâm trao Huân chương Lao động hạng Nhất tặng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Ảnh: VGP - NHÂN DÂN
Đồng hành và kiến tạo
. Nghị quyết 59 ra đời đòi hỏi chúng ta phải thực sự chuyển trạng thái, cách tiếp cận từ thụ động sang chủ động, từ tiếp nhận sang định hình, từ tham gia sang đóng góp. Theo ông, cần làm gì để thực hiện những điều đó?
+ Đây là một yêu cầu rất quan trọng và cũng là một thách thức lớn. Trong 40 năm qua, chúng ta đã đi từng bước vững chắc trong hội nhập quốc tế: Từ hội nhập kinh tế sang hội nhập kinh tế đầy đủ rồi đến hội nhập toàn diện, hội nhập sâu rộng và bây giờ là hội nhập đầy đủ ở một tầm mức cao hơn. Trước đây, VN đã rất chủ động trong việc tham gia, định hình và kiến tạo sân chơi chung nhưng trong giai đoạn mới, chúng ta phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa đồng hành và kiến tạo.
Việc kiến tạo và chủ động này hướng tới một số mục tiêu cụ thể. Thứ nhất, chủ động tham gia để mang lại lợi ích tốt hơn cho quốc gia. Chúng ta phải kiến tạo, tranh thủ sự ủng hộ của đối tác để phục vụ tốt hơn cho những ưu tiên mới của VN. Tức là phải cân bằng giữa nhận và cho. Muốn tranh thủ hợp tác ở những phân khúc cao hơn thì phải có gói “chào hàng” hấp dẫn. Mà muốn có gói “chào hàng” tốt thì chúng ta phải chủ động phát triển nền kinh tế trong nước, tạo ra những cơ hội cho nhà đầu tư ngoại đến làm ăn tại VN.
Nhìn từ cả góc độ kinh tế và chính trị, thế giới đang có những chuyển động rất mạnh mẽ và sâu sắc. Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang định hình lại luật chơi toàn cầu. Do vậy cần nhận diện thật rõ vận hội của đất nước trong cơ hội và thách thức này.
VN cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để tham gia vào quá trình kiến tạo các tiêu chuẩn, chuẩn mực và thông lệ mới về quản trị, kinh tế, thương mại cũng như trong quan hệ quốc tế nói chung. Đồng thời, phải tập trung vào các yếu tố chất lượng hơn, bền vững hơn để phục vụ cho những ưu tiên mới của đất nước.
VN đang có quan hệ đối tác với hơn 30 nước ở nhiều cấp độ khác nhau. Nếu biết cách tận dụng và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ này, chúng ta sẽ có một môi trường hòa bình, ổn định và dư địa hợp tác, phát triển tốt hơn. Đáng chú ý, VN cần thay đổi tư duy, chủ động mở rộng thị trường, nhất là những thị trường mới, có tiềm năng, tránh phụ thuộc vào 1-2 thị trường nhất định. Ngay trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, VN cũng cần chủ động nâng cao chất lượng thương mại…

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Thượng đỉnh BRICS mở rộng năm 2025 và có phát biểu quan trọng tại Phiên thảo luận cấp cao BRICS mở rộng về "Tăng cường chủ nghĩa đa phương, các vấn đề kinh tế - tài chính và trí tuệ nhân tạo", ngày 7-7. Ảnh: VGP
Nội lực - ngoại lực cùng song hành
. VN đã tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi từ bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh, bền vững. Theo ông, làm thế nào để cân bằng giữa hội nhập và tự chủ?
+ Muốn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường thì trước hết phải tự mình phát triển mạnh lên. Thế giới đang trong giai đoạn chuyển đổi sang một trật tự mới. Nghị quyết 59 nhận định trong 5-10 năm tới là giai đoạn giao thoa rất quan trọng giữa cũ - mới và sự tác động của khoa học công nghệ sẽ tạo ra những cơ hội rất lớn. Nếu chúng ta không bắt kịp, không tranh thủ được cơ hội thì nguy cơ tụt hậu xa hơn là rất lớn.
Để hội nhập quốc tế mà vẫn đảm bảo được những yếu tố trên, tôi cho rằng có mấy điểm cần chú ý. Đầu tiên là tăng cường hợp tác. VN có một mạng lưới rộng lớn các đối tác đã ký FTA, hơn 30 đối tác từ toàn diện đến chiến lược toàn diện. Đây là không gian hợp tác chiến lược quan trọng cả về chính trị - an ninh lẫn kinh tế và cần được làm sâu sắc hơn. Đồng thời, khai thác phân khúc cao hơn của các FTA, duy trì các thị trường hiện có và mở rộng các thị trường tiềm năng…
Đặc biệt, thế giới đang ngày càng phân mảnh, dễ bị rủi ro đứt gãy do các tác động về địa chính trị như cạnh tranh giữa nước lớn, các cuộc khủng hoảng năng lượng tại châu Âu hoặc căng thẳng Trung Đông. Do đó, VN phải tăng cường sức chống chịu của chuỗi cung ứng, đa dạng hóa thị trường, nguồn cung để không bị phụ thuộc vào bất kỳ một nền kinh tế lớn nào. Mặt khác, an ninh về kinh tế luôn gắn liền với an ninh quốc gia. Hai yếu tố này góp phần tạo ra chuỗi cung ứng bền vững, giúp nền kinh tế chống chọi được với những “cơn gió ngược”.
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, bên cạnh sự tự lực, vươn lên, VN cũng cần tranh thủ tri thức, kinh nghiệm, kỹ thuật… từ các nước, nếu không sẽ khó tạo ra bứt phá.
Một vấn đề nữa là phải kết hợp hài hòa giữa nội lực và ngoại lực. Trong hội nhập quốc tế, việc tăng cường và phát huy nội lực quốc gia là yếu tố then chốt của then chốt. Tuy nhiên, chỉ có nội lực thôi là chưa đủ. Phải kết hợp cả nội lực và ngoại lực mới có thể tạo ra những bước đột phá và phát triển bền vững. Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, bên cạnh sự tự lực, vươn lên, VN cũng cần tranh thủ kinh nghiệm, kỹ thuật… từ các nước, nếu không sẽ không thể bứt phá và nâng cao năng lực của mình.
. Vậy thông điệp lớn nhất mà Nghị quyết 59 muốn gửi gắm về vị thế của VN trong dòng chảy của thế giới hiện đại là gì, thưa ông?
+ Tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 59 cho phép chúng ta đặt mình trong một tâm thế mới, thấy được năng lực hội nhập mới và những khả năng mà VN có thể tranh thủ. Đây cũng là lần đầu tiên có một nghị quyết của Đảng nói rằng VN cần phải tham gia vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đặt mình vào dòng chảy chính của thời đại để có thể tranh thủ tối đa các cơ hội vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đó chính là con đường để VN không chỉ phát triển thịnh vượng mà còn đóng góp một cách xứng đáng vào hòa bình, hợp tác và phát triển chung của toàn nhân loại.
. Xin cảm ơn ông.
Tạo môi trường hòa bình để hợp tác
80 năm qua, ngoại giao VN đã luôn tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc và một trong những mục tiêu xuyên suốt là ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển. Ngoại giao kinh tế đã luôn đồng hành và từng bước tham gia sâu vào quá trình hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế VN trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, tôi cho rằng trong thời kỳ mới, ngành ngoại giao VN cần nâng tầm về cả nhân lực, vật lực để đáp ứng mục tiêu phát triển của các mốc 2030 và 2045. Do vậy, có một số nhiệm vụ trọng tâm mà ngành ngoại giao cần chú trọng thực hiện.
Đầu tiên, phải nắm bắt được nhu cầu trong nước và tham mưu được những cơ hội mới ở bên ngoài. Đây là nhiệm vụ tiên quyết bởi hội nhập kinh tế không thể tách rời các lĩnh vực về môi trường, nông nghiệp, khoa học công nghệ... Đặc biệt, ngoại giao cần tập trung hơn vào những lĩnh vực ưu tiên then chốt như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo...
Trong mọi trường hợp, đối ngoại nói chung phải tạo ra được môi trường hòa bình, hợp tác phát triển với các mối quan hệ lợi ích đan xen. Tình hình thế giới vẫn đang rất phức tạp, một cuộc khủng hoảng xảy ra dù là kinh tế, thuế quan, chiến tranh bảo hộ mậu dịch... thì đều bất lợi cho các bên, cho hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ quan trọng của ngành ngoại giao là phải vừa hóa giải, vừa cảnh báo những rủi ro có thể gặp trong "cuộc chơi mới" để doanh nghiệp và địa phương chủ động ứng phó.
Đại sứ PHẠM QUANG VINH
******
GÓC NHÌN:
Tổng lãnh sự Ấn Độ tại TP.HCM VIPRA PANDEY:
Việt Nam góp phần bảo đảm ổn định kinh tế dài hạn cho khu vực
Việt Nam (VN) là một quốc gia ủng hộ mạnh mẽ trật tự dựa trên luật lệ, đặc biệt trong các vấn đề hàng hải. VN luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), nhằm giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. VN cũng đóng vai trò tích cực trong các khuôn khổ hợp tác tiểu vùng sông Mekong, thúc đẩy kết nối về hạ tầng, kỹ thuật số và văn hóa thông qua phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa cảng biển và các dự án giao thông xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, VN đã chuyển mình trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất thế giới, duy trì tốc độ tăng trưởng cao và hội nhập sâu vào mạng lưới thương mại toàn cầu. Đất nước đang nổi lên nhanh chóng như một trung tâm sản xuất và kinh tế số, thu hút đầu tư vào lĩnh vực điện tử, xe điện, năng lượng tái tạo và các ngành công nghiệp công nghệ cao. Nỗ lực của VN trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững cũng góp phần bảo đảm ổn định kinh tế dài hạn cho khu vực.
Về quan hệ song phương VN - Ấn Độ, mối liên kết lịch sử và văn hóa giữa hai quốc gia, được hình thành qua nhiều thế kỷ tiếp xúc văn minh, bao gồm Phật giáo, giao thương đường biển và các cuộc đấu tranh giành độc lập, tiếp tục tạo nên nền tảng sâu sắc của sự tin cậy và thiện chí trong quan hệ hiện nay.
Cả hai quốc gia đều coi trọng chủ quyền, độc lập và trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, điều này khiến họ trở thành những đối tác đáng tin cậy. Về phương diện kinh doanh, sự quen thuộc về văn hóa và sự tôn trọng lẫn nhau tạo ra môi trường thuận lợi cho hợp tác. Các doanh nghiệp Ấn Độ trong các lĩnh vực như dược phẩm, công nghệ thông tin, dệt may và năng lượng tái tạo được chào đón tại VN, trong khi các công ty VN như VinFast đang mở rộng sang thị trường Ấn Độ.
................
Quyền Tổng lãnh sự Cộng hòa Indonesia tại TP.HCM ADIGUNA WIJAYA:
Việt Nam được xem là hình mẫu cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và trách nhiệm môi trường
VN hiện nay giữ vị trí then chốt trong ASEAN với vai trò vừa là nền kinh tế năng động, vừa là một quốc gia tích cực thúc đẩy hội nhập khu vực sâu rộng hơn. Năm 2024, GDP của VN đạt 476,3 tỉ USD với tốc độ tăng trưởng vượt 7%. Trong suốt thập niên qua, VN liên tục thể hiện cam kết đối với các nguyên tắc cốt lõi của ASEAN về đoàn kết, khả năng phục hồi kinh tế và phát triển bền vững.
Thứ nhất, về hội nhập kinh tế, VN tích cực triển khai các cam kết trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và là một trong những quốc gia ủng hộ mạnh mẽ tự do hóa thương mại, kết nối số và hội nhập chuỗi cung ứng.
Đóng vai trò cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, VN trở thành trung tâm chiến lược cho thương mại nội khối ASEAN và các dự án kết nối, bao gồm hạ tầng xuyên biên giới và hành lang logistics.
Thông qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do khu vực, đặc biệt là Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), VN đã củng cố tiếng nói chung của ASEAN trong quản trị thương mại toàn cầu.
Thứ hai, về phát triển bền vững, VN đặt mục tiêu tăng trưởng xanh và chuyển đổi năng lượng lên hàng đầu trong chương trình phát triển, phù hợp với mục tiêu bền vững của ASEAN. Cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và các sáng kiến phát triển năng lượng tái tạo của VN được xem là hình mẫu cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và trách nhiệm môi trường.
VN cũng là đối tác tích cực trong các chương trình về khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học và nông nghiệp bền vững trong khu vực.
Thứ ba, VN còn đóng vai trò xây dựng trong việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định hàng hải khu vực - những điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong thời gian tới, VN có vị thế thuận lợi để dẫn đầu trong các lĩnh vực như hội nhập kinh tế số, hợp tác năng lượng tái tạo và các chiến lược tăng trưởng bao trùm, đảm bảo ASEAN duy trì tính cạnh tranh, gắn kết và phát triển bền vững trước những thách thức toàn cầu.
................
Tổng lãnh sự Đức tại TP.HCM ANDREA SÜHL:
Việt Nam đang trở thành một chủ thể quan trọng trong khu vực
Cách tiếp cận ngoại giao của VN thực sự rất ấn tượng. Điều này được đặc trưng bởi sự thận trọng, tinh thần hợp tác và cam kết mạnh mẽ đối với hòa bình, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng của sự tôn trọng lẫn nhau. Điều đặc biệt đáng chú ý đó là VN thành công trong việc vun đắp các mối quan hệ với nhiều đối tác đa dạng và không ngừng nỗ lực để cải thiện các mối quan hệ và đây là nền tảng tuyệt vời cho sự hợp tác giữa Đức và VN.
Sự năng động của VN bắt nguồn từ sự kết hợp mạnh mẽ của nhiều yếu tố: Tăng trưởng kinh tế ấn tượng, sự ổn định, tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế, một thế hệ trẻ đầy tham vọng, tinh thần làm việc chăm chỉ và khả năng đổi mới sáng tạo - tất cả điều này không chỉ là những yếu tố, mà là những đặc điểm cốt lõi của một quốc gia đang trên đà phát triển mạnh mẽ! Và sự tăng trưởng bền vững của VN là minh chứng cho khả năng kiên cường và tầm nhìn của đất nước.
VN đang trở thành một chủ thể quan trọng trong khu vực và ngày càng nổi bật trên toàn cầu. Tiềm năng tăng cường mối quan hệ hợp tác với Đức là rất lớn và mối quan hệ này được thúc đẩy bởi các giá trị chung của chúng ta cũng như sự tập trung vào tự do thương mại.
VN đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên phát triển mới và Đức mong muốn trở thành một đối tác kiên định! Khi VN phấn đấu vươn lên tầm cao mới, hợp tác quốc tế sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đức có vị thế đặc biệt để đóng góp vào các lĩnh vực then chốt trong chiến lược tăng trưởng đầy tham vọng của Chính phủ VN - từ việc tiên phong trong công nghệ bán dẫn, các giải pháp trong giao thông, công nghệ chăm sóc sức khỏe tiên tiến, tận dụng sức mạnh của chuyển đổi số và công nghiệp 4.0 đến tiềm năng của năng lượng tái tạo như hydro xanh, năng lượng mặt trời và gió. Đây không chỉ là hợp tác, mà là một quan hệ đối tác hướng tới sự tiến bộ!
DƯƠNG KHANG - THẢO VY ghi