Dân số già nhanh, Việt Nam cần học gì từ mô hình chăm sóc của Nhật?
Việt Nam đang già hóa nhanh hơn dự báo, tạo áp lực lớn lên kinh tế, y tế và an sinh. Để thích ứng, hệ thống chăm sóc cần phải thay đổi.
Việt Nam đang “ già trước khi giàu”
Việt Nam là quốc gia đang trong nhóm thu nhập trung bình lại thuộc nhóm có tốc độ già hóa nhanh hàng đầu thế giới, chỉ đứng sau Singapore và Thái Lan trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương.
Đây là chia sẻ từ TS Đoàn Hữu Minh, cán bộ chương trình thuộc Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, tại Diễn đàn Kinh tế Bạc vừa diễn ra tại TP.HCM.
Theo ông Minh, Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa từ năm 2011 với mốc 10% dân số từ 60 tuổi trở lên.
Nhưng điều đáng lo ngại là tốc độ già hóa ở Việt Nam đang diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với dự báo trước đây. Nếu như các tính toán cũ cho rằng Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “dân số già” vào khoảng năm 2036 thì các số liệu cập nhật cho thấy mốc này có thể đến sớm hơn, chỉ vào năm 2031–2032, khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đạt 20% dân số.
Đến năm 2050, Việt Nam được dự báo sẽ chính thức bước vào nhóm “siêu già” với trên 25% dân số ở độ tuổi trên 60. Đặc biệt, Liên Hợp Quốc mới đây dự báo dân số Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào năm 2049 ở mức khoảng 110 triệu người, thấp hơn 7 triệu so với ước tính trước đó.
Ông Minh ví von Việt Nam đang tiến rất nhanh đến trạng thái “già trước khi giàu”. Xu hướng này được thúc đẩy bởi hai yếu tố chính là tuổi thọ ngày càng tăng, hiện đạt 74 tuổi, trong khi tỷ suất sinh lại giảm mạnh xuống chỉ còn 1,91 con mỗi phụ nữ, thấp hơn ngưỡng thay thế 2,1. Sự kết hợp của hai xu hướng này khiến tốc độ già hóa dân số của Việt Nam trở nên đặc biệt nhanh và đặt ra nhiều thách thức trong thập kỷ tới.

TS Đoàn Hữu Minh, cán bộ chương trình, tăng trưởng bao trùm và an sinh xã hội, UNFPA Việt Nam. Ảnh: Vietsuccess
Một thực tế đáng ưu tư: tuổi thọ 74 năm nhưng tuổi thọ khỏe mạnh chỉ 64, nghĩa là 10 năm cuối đời sống trong tình trạng bệnh lý, phụ thuộc. Theo ông Minh, già hóa dân số không chỉ là một thay đổi về cấu trúc tuổi, mà tạo ra áp lực đồng thời lên cả ba trụ cột: kinh tế, lao động và an sinh xã hội.
Khi lực lượng lao động thu hẹp, tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế sẽ chậm lại, năng suất lao động suy giảm và nguy cơ thiếu hụt nhân lực ngày càng rõ rệt. Cùng lúc, chi phí dành cho y tế và chăm sóc dài hạn tăng nhanh, kéo theo gánh nặng lớn hơn cho ngân sách nhà nước cũng như cho từng gia đình. Đáng chú ý, một người Việt Nam hiện có khoảng 11 năm thâm hụt kinh tế vòng đời, do thời gian phụ thuộc từ trước 21 tuổi và sau 55 tuổi kéo dài hơn quãng thời gian tạo ra thu nhập.
Trong khi áp lực ngày càng tăng, hệ thống chăm sóc của Việt Nam lại chưa phát triển tương xứng. Ông Minh cho biết thêm, hiện tạị Việt Nam chưa có mã nghề hay bộ tiêu chuẩn đào tạo bài bản cho lực lượng chăm sóc người cao tuổi; mạng lưới dịch vụ chính thức chỉ đáp ứng khoảng 0,05% nhu cầu, gần như không đáng kể; và hơn 60% lao động vẫn nằm ngoài hệ thống bảo hiểm xã hội, khiến rủi ro khi về già rất lớn. Bên cạnh đó, mức trợ cấp xã hội dành cho người cao tuổi chỉ khoảng 500.000 đồng mỗi tháng, một con số quá thấp so với chuẩn nghèo và hoàn toàn không đủ để bảo đảm một cuộc sống tối thiểu.
Khoảng 1,6 triệu người cao tuổi thuộc nhóm hoàn toàn phụ thuộc (không thể tự chăm sóc), trong khi tổng năng lực của các trung tâm nhà nước chỉ đáp ứng được 5.800 người, chưa đến 1%.
Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn khi Việt Nam bước vào giai đoạn bệnh mạn tính tăng nhanh, trong khi hệ thống bệnh viện vốn đã quá tải.
Bài học từ Nhật Bản và chiến lược y tế tại nhà
Nếu Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa nhanh, thì Nhật Bản chính là hình mẫu báo trước cho những gì có thể xảy ra. Những thách thức mà Nhật Bản đối mặt hôm nay rất có thể sẽ trở thành thực tế của Việt Nam trong 10–20 năm tới.
Ông Ando Masahiro, Chủ tịch Tập đoàn Taiyo Nhật Bản cho biết Nhật Bản hiện chứng kiến số ca tử vong hằng năm tăng mạnh, một hiện tượng được gọi là “quá tải cái chết”. Từ thập niên 1970 đến nay, hơn 60% người Nhật qua đời tại bệnh viện. Dự báo đến các năm tới, số người qua đời mỗi năm còn tăng nhanh hơn, tạo áp lực khủng khiếp lên hệ thống bệnh viện.
Nếu không thay đổi mô hình chăm sóc, hệ thống bệnh viện của Nhật Bản sẽ không thể chịu nổi áp lực ngày càng lớn từ quá trình già hóa dân số. Thực tế cho thấy, khi bước vào giai đoạn già hóa sâu, phần lớn người cao tuổi phải sống chung với nhiều bệnh mạn tính, sức khỏe suy giảm và khả năng di chuyển hạn chế. Việc điều trị nội trú kéo dài tại bệnh viện vừa tốn kém, vừa không mang lại sự cải thiện đáng kể về chất lượng sống.
Từ những áp lực ngày càng lớn đối với hệ thống bệnh viện, Nhật Bản đã chuyển hướng mạnh sang mô hình chăm sóc dựa vào cộng đồng, trong đó trọng tâm là đưa dịch vụ y tế về tận nhà cho người cao tuổi.
Mô hình này bao gồm chăm sóc y tế tại nhà, chăm sóc giảm nhẹ, dịch vụ điều dưỡng thăm khám định kỳ và một mạng lưới chăm sóc cuối đời cho phép bệnh nhân được ra đi trong môi trường thân thuộc bên gia đình.
Đến năm 2023, Nhật Bản đã có khoảng 240.000 bệnh nhân sử dụng dịch vụ y tế tại nhà, trong đó hơn 202.500 người từ 75 tuổi trở lên và số bệnh nhân điều trị nội trú có xu hướng giảm dần qua từng năm. Sự phát triển mạnh mẽ này có được là nhờ hệ thống bảo hiểm y tế công, bảo hiểm chăm sóc dài hạn và chính sách hỗ trợ chi phí y tế rất hiệu quả.
Ở chiều ngược lại, ông Ando nhận xét rằng Việt Nam cũng có nhu cầu rất lớn và mang nhiều nét văn hóa tương đồng. Người Việt thường mong muốn được ở nhà, bên cạnh người thân trong những ngày cuối đời, đó được xem là điều thiêng liêng và nhân văn nhất.
Tuy nhiên, hệ thống hỗ trợ cho mong muốn ấy hiện chưa được xây dựng đầy đủ như dịch vụ chăm sóc cuối đời tại nhà gần như chưa có mô hình chuẩn; chăm sóc giảm nhẹ tại nhà còn hạn chế; bảo hiểm y tế chưa chi trả cho dịch vụ tại nhà; nhận thức xã hội còn thấp; và các thủ tục hành chính liên quan đến loại hình chăm sóc mới này vẫn khá phức tạp. Điều này khiến khoảng trống giữa nhu cầu thực tế và năng lực cung ứng ngày càng lớn, đặc biệt khi tốc độ già hóa của Việt Nam ngày càng tăng nhanh.
Để phù hợp với bối cảnh và nhu cầu tại Việt Nam, ông Ando cho biết Taiyo sẽ triển khai mô hình y tế tại nhà theo lộ trình từng bước, bắt đầu bằng việc thành lập một đơn vị chuyên trách với quy mô nhỏ, tập trung vào các dịch vụ cốt lõi như thăm khám tại nhà, chăm sóc sức khỏe giảm nhẹ và hỗ trợ chăm sóc cuối đời. Đội ngũ bác sĩ và điều dưỡng sẽ được tổ chức gọn nhẹ nhưng chuyên sâu, nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ ngay từ giai đoạn đầu.
Ông Minh nhấn mạnh rằng già hóa dân số không phải là một cuộc khủng hoảng, mà là một bài kiểm tra năng lực thích ứng của quốc gia. Già hóa là thành tựu của phát triển, nhưng sẽ trở thành thách thức lớn nếu chúng ta không chuẩn bị sớm.
Việt Nam cần một hệ thống an sinh xã hội đa tầng, cần đẩy mạnh bảo hiểm chăm sóc dài hạn, thiết kế chính sách theo vòng đời, ứng dụng công nghệ trong chăm sóc và đặc biệt là xây dựng một mô hình chăm sóc tại nhà phù hợp với văn hóa và điều kiện thực tế của người Việt.
Bài học từ Nhật Bản và mô hình mà Taiyo đang triển khai cho thấy một hướng đi rõ ràng: đưa chăm sóc từ bệnh viện về nhà chính là chìa khóa để Việt Nam thích ứng hiệu quả với xu hướng già hóa dân số trong những thập kỷ tới.












