Đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Phát triển kinh tế rừng gắn với giao đất, giao rừng được xác định là một trong những chủ trương quan trọng nhằm tạo sinh kế ổn định, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đồng thời bảo vệ và phát triển rừng bền vững.

Giao đất, giao rừng tạo nền tảng phát triển kinh tế rừng

Chiều 9/12, Thường trực Hội đồng Dân tộc đã tổ chức cuộc họp làm việc với các bộ, ngành liên quan để xin ý kiến về dự thảo Báo cáo kết quả khảo sát “Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về giao đất, giao rừng, bảo vệ, phát triển rừng gắn với tạo sinh kế ổn định, nâng cao đời sống cộng đồng dân cư và hộ gia đình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2019 - 2023”.

Theo Báo cáo khảo sát, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt, chiếm tới 65,5% tổng diện tích tự nhiên của cả nước; trong đó, đất lâm nghiệp chiếm 78,3% và đất rừng chiếm 78,6%. Đây là nơi sinh sống của hơn 83% tổng số dân tộc thiểu số cả nước, song cũng là khu vực tập trung tới 70,6% số hộ nghèo và cận nghèo, với tỷ lệ nghèo cao gấp 2,2 lần mức bình quân chung.

Giai đoạn 2019–2023, việc giao đất, giao rừng, cho thuê rừng và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Lâm nghiệp 2017 và Luật Đất đai 2013 đã được các địa phương triển khai tương đối đồng bộ. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách được đẩy mạnh, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, làm cơ sở quan trọng để tổ chức thực hiện giao rừng trên thực tế.

 Thường trực Hội đồng Dân tộc họp với các bộ, ngành về chính sách phát triển rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Thường trực Hội đồng Dân tộc họp với các bộ, ngành về chính sách phát triển rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Kết quả nổi bật là diện tích rừng có chủ quản lý ngày càng được mở rộng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Phần lớn diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã được giao cho các chủ thể sử dụng, bao gồm ban quản lý rừng, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư. Đáng chú ý, nhiều diện tích đất lâm nghiệp do doanh nghiệp nhà nước quản lý trước đây đã được chuyển sang hình thức thuê đất theo đúng quy định pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, giao rừng đã tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động của người dân. Khi rừng “có chủ”, người dân yên tâm đầu tư, gắn bó với rừng, trách nhiệm bảo vệ rừng được nâng cao, tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng giảm đáng kể.

Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương, các địa phương đã ban hành 287 lượt văn bản nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Nhiều địa phương có cách làm hiệu quả, như Lạng Sơn đã hoàn thành đo đạc, lập hồ sơ và phê duyệt phương án sử dụng đất sau thu hồi; 24/28 tỉnh đã triển khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau giao đất, giao rừng.

Tuy nhiên, quá trình triển khai chính sách cũng bộc lộ không ít khó khăn, bất cập. Một số quy định pháp lý đã không còn phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách hỗ trợ trồng rừng theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP với quy định “chỉ hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu” không còn đáp ứng yêu cầu thực tế, khi nhiều diện tích rừng đã được người dân trồng qua nhiều chu kỳ. Điều này khiến nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp khó tiếp cận chính sách hỗ trợ, như tại Tuyên Quang, Lào Cai.

Bên cạnh đó, chính sách trợ cấp gạo cho hộ nghèo trồng rừng thay thế nương rẫy chưa làm rõ tiêu chí “hộ nghèo chưa tự túc lương thực”, gây lúng túng trong tổ chức thực hiện. Sự chưa đồng bộ giữa Luật Lâm nghiệp 2017 và Luật Đất đai 2024 trong quy định về giao rừng cho cộng đồng cũng dẫn tới tình trạng phải thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp tại một số địa phương.

Ngoài ra, lực lượng chuyên trách lâm nghiệp ở cơ sở còn thiếu, năng lực cán bộ chưa đồng đều; công tác tham mưu, quản lý địa bàn còn hạn chế. Ý thức, trách nhiệm bảo vệ rừng của một bộ phận người dân và chủ rừng chưa cao, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi chính sách.

Tháo gỡ “điểm nghẽn” chính sách, mở đường cho sinh kế bền vững

 (Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Một “điểm nghẽn” lớn được Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ ra là việc thiếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do số liệu giữa các ngành, các cấp chưa thống nhất, nhiều hộ đã được giao đất, giao rừng nhưng chưa hoàn thiện hồ sơ pháp lý. Đây là rào cản lớn khiến người dân khó tiếp cận chính sách hỗ trợ và nguồn vốn tín dụng.

Để tháo gỡ, Ngân hàng Chính sách xã hội kiến nghị cho phép sử dụng biên bản giao đất, giao rừng hoặc xác nhận của UBND cấp xã làm căn cứ vay vốn đối với các hộ chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung giữa ngành nông nghiệp và tài nguyên môi trường, nhằm xác định đúng đối tượng thụ hưởng, phục vụ quản lý hiệu quả nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia.

Về lâu dài, cần ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn tín dụng chính sách từ ngân sách nhà nước trong các kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm. Cùng với đó, mở rộng chính sách hỗ trợ sinh kế gắn với rừng cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; đa dạng hóa mô hình sản xuất như VACR (Vườn – Ao – Chuồng – Rừng), du lịch sinh thái, phát triển dược liệu, gắn phát triển rừng với giảm nghèo bền vững.

Thông tin từ Bộ Tài chính cho biết, việc phân bổ nguồn lực từ Quỹ bảo vệ và phát triển rừng đã ưu tiên các địa phương có diện tích rừng tự nhiên lớn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đồng thời, Bộ cũng chú trọng tăng nguồn lực cho đào tạo nhân lực lâm nghiệp, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện miền núi.

Có thể khẳng định, đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng gắn với giao đất, giao rừng không chỉ là giải pháp bảo vệ “lá phổi xanh” của đất nước, mà còn là hướng đi căn cơ để tạo sinh kế bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm và bền vững.

Bình An

Nguồn TCDN: https://taichinhdoanhnghiep.net.vn/day-manh-phat-trien-kinh-te-rung-tao-sinh-ke-ben-vung-cho-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-d63387.html