Để chính sách sống cùng đời sống

Kinhtedote - Bộ Tài chính vừa đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sau nhiều năm giữ nguyên. Đây là bước điều chỉnh quan trọng, song dư luận và giới chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh giá cả leo thang, thu nhập cải thiện chậm, chính sách cần nhanh chóng, linh hoạt và sát thực tế hơn để tránh nguy cơ 'chưa ban hành đã lạc hậu'.

Chưa ban hành đã lo lỗi thời

Trong dự thảo Nghị quyết về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, Bộ Tài chính đề xuất nâng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế từ 11 triệu đồng/tháng lên khoảng 15,5 triệu đồng/tháng và mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 4,4 triệu đồng/tháng lên 6,2 triệu đồng/tháng. Đây là bước điều chỉnh quan trọng sau nhiều năm, nhằm giảm gánh nặng thuế cho người dân. Đây là lần điều chỉnh thứ hai kể từ khi Luật Thuế TNCN được ban hành.

Trước đó, mức giảm trừ gia cảnh đã từng được nâng từ 9 triệu đồng lên 11 triệu đồng/tháng cho bản thân người nộp thuế và từ 3,6 triệu đồng lên 4,4 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc vào năm 2020. Mục tiêu của chính sách là tạo điều kiện cho người nộp thuế có thêm thu nhập thực tế để trang trải chi phí sinh hoạt, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội trong thuế khóa.

Người lao động tại Khu công nghiệp Thăng Long, nhận tiền lương qua cây ATM. Ảnh: Công Hùng

Người lao động tại Khu công nghiệp Thăng Long, nhận tiền lương qua cây ATM. Ảnh: Công Hùng

Ngay khi công bố, đề xuất này lại tiếp tục nhận nhiều ý kiến phản biện. Các chuyên gia cho rằng mức tăng 40,9% tuy nhìn qua có vẻ lớn, nhưng thực tế chưa phản ánh đúng chi phí sinh hoạt của người dân hiện nay. Thực tế, từ năm 2020 đến nay, chi phí giáo dục, y tế, nhà ở, điện nước, xăng dầu đã tăng mạnh, khiến 15,5 triệu đồng ở các đô thị lớn khó có thể coi là “chuẩn sống đủ”. Nói cách khác, nếu việc điều chỉnh chỉ mang tính “đuổi theo” quá khứ mà không tính tới biến động trong vài năm tới, thì chính sách dễ rơi vào tình trạng vừa ra đời đã lạc hậu, làm giảm hiệu quả hỗ trợ và gây thêm tranh luận trong xã hội.

TS Lê Đăng Doanh – nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế T.Ư chỉ ra, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một thước đo quan trọng, nhưng nó không phản ánh được toàn bộ áp lực chi tiêu trong đời sống thực tế, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Thực tế, giá cả leo thang với tốc độ cao hơn nhiều so với CPI. Chỉ riêng tiền thuê nhà tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã tăng trung bình 20 - 30% so với giai đoạn 2020. Giá điện, nước, xăng dầu, học phí và chi phí y tế đều tăng mạnh.

Điều đó khiến một gia đình 4 người với thu nhập tầm 40 triệu đồng/tháng vẫn khó dành dụm. Ví dụ, để nuôi một đứa trẻ tại TP lớn, chi phí dao động từ 8 - 10 triệu đồng/tháng (bao gồm học phí, ăn uống, sinh hoạt cơ bản). Như vậy, mức giảm trừ 6,2 triệu đồng cho mỗi người phụ thuộc là con số “đẹp trên giấy”, nhưng chưa đủ phản ánh thực chi.

Chính vì vậy, đề xuất điều chỉnh lần này bị đánh giá là “chậm một nhịp”, chưa tính đến bức tranh giá cả biến động mạnh trong giai đoạn hậu Covid-19 và lạm phát toàn cầu.

Thuế TNCN không chỉ để tăng thu ngân sách, mà còn để nuôi dưỡng nguồn lực phát triển. Nếu mức giảm trừ gia cảnh hợp lý, người dân sẽ yên tâm đóng góp, Nhà nước cũng có lợi lâu dài.

Chuyên gia lĩnh vực thuế Nguyễn Văn Được

Chung quan điểm, PGS.TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, một trong những bất cập lớn là chu kỳ 5 năm mới điều chỉnh mức giảm trừ một lần. Theo PGS.TS Ngô Trí Long, điều này khiến chính sách luôn “chạy theo” thực tế, không kịp thời bảo vệ người lao động: “Nhu cầu cuộc sống thay đổi từng năm, thậm chí từng quý. Giá cả có thể biến động mạnh chỉ sau một biến cố kinh tế - xã hội. Nếu chỉ 5 năm mới điều chỉnh một lần, chính sách chắc chắn sẽ lạc hậu” – PGS.TS Ngô Trí Long nêu ý kiến.

Ở góc độ người dân, nhiều lao động bày tỏ mong muốn chính sách phải “sát sườn” hơn với chi tiêu hằng ngày. Chị Nguyễn Thị Hồng (phường Hà Đông, Hà Nội) cho biết: “Chi phí nuôi một đứa trẻ ở TP hiện nay ít nhất 8 – 10 triệu đồng/tháng. Nếu giảm trừ chỉ 6,2 triệu đồng cho mỗi con thì vẫn chưa đủ”. Trong khi đó, anh Trần Văn Nam - tài xế công nghệ tại Hà Nội cho rằng, mức điều chỉnh mới “giúp đỡ đôi chút” nhưng chưa phản ánh đúng gánh nặng chi phí của lao động tự do.

Một số ý kiến khác còn chỉ ra sự bất hợp lý khi chính sách áp dụng chung cho mọi vùng miền. Ở nông thôn, chi phí sinh hoạt thấp hơn, mức giảm trừ có thể phù hợp. Nhưng ở các đô thị lớn, chi phí cao gấp nhiều lần, đòi hỏi chính sách cần phân biệt theo khu vực để bảo đảm công bằng hơn.

Cần một chính sách “sống”

Từ những bất cập trên, có thể thấy, đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh lần này là bước đi đúng hướng, nhưng chưa đủ. Điều người dân mong chờ không chỉ là con số 15,5 triệu đồng hay 6,2 triệu đồng, mà là một cơ chế linh hoạt, tự động, có khả năng cập nhật theo biến động kinh tế - xã hội. Giới chuyên gia cho rằng, thay vì giữ chu kỳ 5 năm, cần nghiên cứu cơ chế điều chỉnh tự động hàng năm theo CPI hoặc theo mức thu nhập bình quân. Như vậy, mức giảm trừ gia cảnh sẽ “chạy cùng” biến động chi phí sinh hoạt, không còn tình trạng lạc hậu.

Một giải pháp khác là tính đến yếu tố vùng miền. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, chính sách thuế cần linh hoạt với từng khu vực, bởi chi phí sinh hoạt tại đô thị lớn luôn cao hơn so với nông thôn. Nếu áp dụng mức giảm trừ chung, người ở TP sẽ chịu thiệt. Đồng thời, các ý kiến cũng đề nghị rút ngắn quy trình ban hành để chính sách kịp thời đi vào cuộc sống. Bởi lẽ, việc mất quá nhiều thời gian từ khâu đề xuất đến áp dụng sẽ khiến chính sách luôn chậm một nhịp, giảm hiệu quả bảo vệ người nộp thuế.

Chuyên gia thuế Nguyễn Văn Được - Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn thuế Trọng Tín cho rằng, thực tế mức giảm trừ gia cảnh đã lạc hậu từ lâu, tới nay mới điều chỉnh là đã chậm hơn thực tế. Nếu tới kỳ tính thuế năm 2026 mới áp dụng, việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh càng thêm trễ, người nộp thuế quá thiệt thòi. Vị chuyên gia này nhấn mạnh, chính sách thuế phải bảo đảm tính kịp thời, linh hoạt và công bằng. Nếu không, chính sách sẽ tiếp tục rơi vào vòng lặp: mỗi lần điều chỉnh đều bị cho là chậm, lỗi thời và chưa sát thực tế.

Tôi mong mức giảm trừ gia cảnh phải bám sát chi phí thực tế, chứ không chỉ là con số đẹp trên giấy. Chính sách cần linh hoạt hơn để người lao động thực sự bớt gánh nặng.

Chị Nguyễn Thị Hồng , nhân viên văn phòng tại Hà Đông, Hà Nội

Chuyên gia thuế Nguyễn Văn Được dẫn chứng, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng cơ chế điều chỉnh linh hoạt để bảo đảm mức giảm trừ gia cảnh luôn bám sát đời sống thực tế. Ở Thái Lan, mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế khoảng 60.000 baht/năm (tương đương 1.500 USD) và được rà soát, cập nhật định kỳ theo biến động thu nhập bình quân. Malaysia thì có cơ chế miễn, giảm thuế theo từng khoản chi thực tế như giáo dục, y tế, bảo hiểm… nhờ đó phản ánh sát hơn gánh nặng chi tiêu của hộ gia đình. Tại Singapore, mức giảm trừ được tính theo số con, tình trạng hôn nhân, chi phí chăm sóc cha mẹ già và được cập nhật hằng năm, tránh tình trạng lạc hậu so với thực tế.

Các nước thuộc OECD thậm chí còn áp dụng cơ chế indexation - tự động điều chỉnh mức giảm trừ theo chỉ số giá tiêu dùng hoặc thu nhập trung vị. Theo chuyên gia này, so với những kinh nghiệm quốc tế, chính sách thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam hiện vẫn khá cứng nhắc, chậm điều chỉnh và chưa tính đến đặc thù vùng miền. “Chính sự thiếu linh hoạt khiến khoảng cách giữa quy định trên giấy và chi tiêu thực tế của người dân ngày càng nới rộng” - ông Nguyễn Văn Được nhận định.

Cuối cùng, điều quan trọng nhất là thay đổi tư duy: thuế TNCN không phải công cụ tận thu, mà là một phần trong chính sách an sinh. Một chính sách hợp lý sẽ tạo ra niềm tin, khiến người dân sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ, coi đó là trách nhiệm chính đáng.

Phương Nga

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/de-chinh-sach-song-cung-doi-song.847332.html