Đề xuất 6 dự án đầu tư công lĩnh vực hàng hải giai đoạn 2026 - 2030
Cục Hàng hải và Đường thủy VN vừa trình Bộ Xây dựng về việc xin giao nhiệm vụ lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi dự án lĩnh vực hàng hải và đường thủy, giai đoạn 2026-2030.
Loạt dự án cấp bách cho việc cứu hộ, cứu nạn trên biển
Theo đó, để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 của Bộ Xây dựng, Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam đã đề xuất 6 dự án phù hợp với chức năng nhiệm vụ và kết quả thực hiện thời gian qua của Cục.

Giai đoạn 2026-2030, Cục Hàng hải và Đường thủy VN đề xuất thực hiện dự án đóng mới 2 tàu chuyên dụng tìm kiếm cứu nạn hoạt động xa bờ.
Một trong số đó là đóng mới 2 tàu chuyên dụng tìm kiếm cứu nạn hoạt động xa bờ. Theo Cục Hàng hải và Đường thủy VN, vùng trách nhiệm về tìm kiếm, cứu nạn trên biển Việt Nam là toàn bộ vùng nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế trên biển và vùng nước các đảo ngoài khơi với tổng diện tích trên 1 triệu km2 và trải dài trên 3.260km bờ biển.
Đối tượng tìm kiếm cứu nạn trên biển gồm tàu hàng, tàu khách, thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc khai thác, thăm dò dầu khí, du lịch trên biển... đặc biệt là ngư dân và tàu cá Việt Nam và lấy kinh tế biển làm nòng cốt.
Tuy nhiên, diễn biến thời tiết, bão gió trên biển ngày càng khắc nghiệt, gây thiệt hại lớn cho tàu thuyền và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tìm kiếm, cứu nạn trên biển. Trong khi đó, đội tàu thực hiện tìm kiếm cứu nạn do Cục quản lý còn mỏng, chưa đáp ứng được với vùng trách nhiệm tìm kiếm, cứu nạn.
Do vậy, cơ quan này cho rằng việc đầu tư bổ sung tàu chuyên dụng tìm kiếm cứu nạn xa bờ, có khả năng hoạt động cứu nạn dài ngày trên biển, giữa các khu vực đảo, phối hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong mọi điều kiện thời tiết và thực hiện các hoạt động huấn luyện, chữa cháy, lai dắt, hỗ trợ các hoạt động ứng cứu sự cố tràn dầu… hết sức cần thiết và cấp bách.
Cấp bách không kém là việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ quản lý nhà nước, cơ sở hạ tầng tìm kiếm cứu nạn, nhằm thực hiện có hiệu quả công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, nhất là khi xảy ra bão lớn, tai nạn hàng hải phức tạp hoặc sự cố môi trường biển.
Nguyên nhân, cơ sở hạ tầng hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về tổ chức, chỉ huy và hỗ trợ kỹ thuật cho hoạt động cứu nạn, cứu hộ.
Một số công trình đã khai thác lâu năm, xuống cấp, thiếu đồng bộ; nhiều hạng mục chưa được đầu tư mới theo chuẩn hiện đại, gây hạn chế trong việc huy động lực lượng, tiếp nhận thông tin, phối hợp điều hành và bảo đảm hậu cần trong các tình huống khẩn cấp.
Trong bối cảnh hoạt động hàng hải và vận tải biển phát triển mạnh, lưu lượng tàu thuyền trong và ngoài nước qua lại vùng biển Việt Nam ngày càng tăng, nguy cơ xảy ra sự cố hàng hải cũng lớn hơn, đòi hỏi công tác tìm kiếm cứu nạn phải chủ động, chuyên nghiệp và được trang bị hạ tầng kỹ thuật hiện đại.
Một dự án khác được đề xuất thực hiện giai đoạn này là trang bị tàu, ca nô đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý ngành hàng hải, tăng cường khả năng cơ động. Đây là lực lượng nòng cốt phục vụ công tác quản lý, vận hành, thay – thả – điều chỉnh phao báo hiệu, tiếp tế vật tư, kiểm tra định kỳ và ứng phó kịp thời khi xảy ra sự cố, tai nạn hàng hải.
Tuy nhiên, phương tiện hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế về số lượng so với nhu cầu thực tế. Trong đó, đa số phương tiện hiện có đã khai thác trong thời gian dài, công nghệ cũ, tính an toàn thấp, thường xuyên hư hỏng, tiêu tốn nhiên liệu và phát sinh chi phí sửa chữa lớn.
Chưa kể, khả năng chuyên chở và hoạt động hạn chế, do phần lớn là phương tiện nhỏ, không đáp ứng yêu cầu vận chuyển vật tư, thay ca công nhân tại các trạm đèn và trạm quản lý luồng. Đặc biệt, năng lực ứng phó sự cố của các phương tiện còn hạn chế, đặc biệt trong điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt.
Đầu tư xây dựng các dự án tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn
Giai đoạn 2026 - 2030, Cục Hàng hải và Đường thủy đề xuất triển khai một loạt dự án hạ tầng hàng hải trọng điểm, gồm: Đài thông tin duyên hải, Trung tâm tìm kiếm cứu nạn, Đại diện Cảng vụ hàng hải Nha Trang tại Trường Sa và hệ thống đèn biển.
Theo Cục Hàng hải và Đường thủy, việc bổ sung các đèn biển tại khu vực gần tuyến hàng hải quốc tế, khu vực chuyển tiếp vào tuyến ven biển và những vị trí thuận lợi cho quan sát là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm an toàn cho tàu thuyền, đáp ứng yêu cầu của IMO, khuyến cáo của IALA, đồng thời khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trường Sa được xác định có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và kinh tế. Khi dự án hoàn thành, hệ thống đài thông tin duyên hải sẽ được mở rộng tầm hoạt động, nâng cao năng lực thông tin liên lạc, hỗ trợ an toàn, an ninh và tìm kiếm cứu nạn cho tàu thuyền trong vùng chủ quyền của Việt Nam.
Bên cạnh đó, cơ quan này nhấn mạnh sự cấp thiết của việc xây dựng khu neo đậu tránh, trú bão tại khu vực phía Bắc. Hiện hạ tầng neo đậu còn thiếu và phân bố chưa đồng bộ; nhiều cảng cá, bến neo quy mô nhỏ, không đủ khả năng tiếp nhận tàu thuyền công suất lớn; dịch vụ hậu cần, kè chắn sóng, luồng lạch chưa đáp ứng yêu cầu.
Thực tế, khi bão xảy ra, ngư dân vẫn phải neo đậu tạm tại cửa sông, vịnh nhỏ, tiềm ẩn rủi ro lớn về người và tài sản. Trong bối cảnh kinh tế biển phát triển mạnh, số lượng tàu cá, tàu vận tải ngày càng tăng, nhu cầu có hệ thống neo đậu hiện đại, an toàn, bền vững được coi là rất cấp bách.
Ngoài ra, Cục Hàng hải và Đường thủy cũng đề xuất đầu tư đồng bộ Hệ thống giám sát và điều phối giao thông hàng hải (VTS). Hiện nay, công tác quản lý vẫn chủ yếu dựa vào AIS, VHF và radar cục bộ tại một số cảng lớn, phạm vi hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng chuẩn mực quốc tế.
Trong khi đó, lưu lượng tàu biển quốc tế và nội địa ngày càng gia tăng, nguy cơ mất an toàn hàng hải (va chạm, mắc cạn, cháy nổ, sự cố tràn dầu, ô nhiễm môi trường) ngày càng lớn.
Việc đầu tư hệ thống VTS được đánh giá là tất yếu để bảo đảm an toàn, an ninh trên tuyến luồng và khu vực cảng biển, hỗ trợ điều động tàu thuyền, phòng ngừa tai nạn, tăng cường phối hợp tìm kiếm cứu nạn, phòng chống thiên tai và ứng phó sự cố môi trường trên biển.