Đề xuất chi hơn 125.000 tỷ đồng nâng cao sức khỏe toàn dân

Bộ Y tế trình Quốc hội chương trình chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035, nhấn mạnh 10 mục tiêu trọng tâm.

 Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt tờ Trình.

Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt tờ Trình.

Sáng 25/11, trong chương trình làm việc của Kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.

10 mục tiêu lớn thay đổi diện mạo sức khỏe toàn dân đến 2035

Theo tờ trình do Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan trình bày, chương trình hướng tới mục tiêu nâng cao toàn diện sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc và tuổi thọ người Việt; bảo đảm mọi người dân được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng; chủ động phòng bệnh từ sớm, thích ứng với già hóa dân số và tăng cường hỗ trợ nhóm yếu thế. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội khỏe mạnh và thịnh vượng trong giai đoạn mới.

Chương trình đặt ra 10 mục tiêu cụ thể:

Góp phần nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035.
Tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học đến năm 2030 đạt 100%.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%.
Tỷ lệ người dân được tiếp cận với ít nhất 1 kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe đạt 50% vào năm 2030 và đạt 80% vào năm 2035.
Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.

 Người dân đến thăm khám tại Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Đinh Hà.

Người dân đến thăm khám tại Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Đinh Hà.

Chương trình có đối tượng thụ hưởng là: Toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.

Địa điểm thực hiện Chương trình là: Các tỉnh/thành phố trong cả nước, ưu tiên khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo.

Tổng kinh phí thực hiện chương trình trong 10 năm (2026-2035) là 125.478 tỷ đồng, chia thành 2 giai đoạn. Bộ Y tế là cơ quan chủ trì, với 5 dự án thành phần: nâng cao năng lực y tế cơ sở; nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh; dân số và phát triển; chăm sóc xã hội cho người yếu thế; truyền thông y tế và giám sát chương trình.

Đề nghị làm rõ vốn và mục tiêu chương trình

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết Ủy ban thống nhất sự cần thiết của chương trình, phù hợp chủ trương của Đảng và đáp ứng yêu cầu quyết định chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư công. Hồ sơ chương trình được chuẩn bị đầy đủ.

Tuy nhiên, Ủy ban đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát để tránh trùng lặp với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, đồng thời hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội.

 Các đại biểu tham dự tại Hội trường.

Các đại biểu tham dự tại Hội trường.

Về các nội dung cụ thể, Ủy ban đề nghị:

Thứ nhất, về đối tượng thụ hưởng: Bổ sung người khuyết tật vào nhóm ưu tiên và giao Chính phủ quy định chi tiết để thực hiện thống nhất.

Thứ hai, về nguồn vốn: Làm rõ cơ cấu vốn, bảo đảm phân bổ hợp lý giữa hai trụ cột chăm sóc sức khỏe và dân số - phát triển (trong đó vốn cho dân số hiện mới chiếm 15,5% giai đoạn 2026-2030). Chính phủ cần đánh giá khả năng huy động ngân sách địa phương, nhất là nơi khó khăn; đẩy mạnh xã hội hóa và tránh bố trí vốn cho những hoạt động đã được chi từ kinh phí thường xuyên.

Thứ ba, về mục tiêu chương trình: Rà soát lại toàn bộ mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và chỉ tiêu của từng tiểu dự án để bảo đảm tính logic, khả thi và thuận tiện cho giám sát. Một số mục tiêu cần được làm rõ căn cứ đề xuất và nội hàm chỉ tiêu.

Thứ tư, về các dự án thành phần: Lựa chọn nội dung cốt lõi, tránh dàn trải; bảo đảm mục tiêu - giải pháp - hoạt động thống nhất và có chỉ số đánh giá rõ ràng. Ủy ban cũng đề nghị nghiên cứu bổ sung dự án phát huy y học cổ truyền, dược liệu và bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm.

Thứ năm, về dự thảo Nghị quyết: Chính phủ cần tiếp tục chỉnh lý bố cục và nội dung, bổ sung các nguyên tắc phân bổ vốn, làm rõ trách nhiệm Bộ Y tế và chính quyền địa phương. Ủy ban cũng đề xuất cơ chế đặc thù không yêu cầu vốn đối ứng với địa phương khó khăn và giao Chính phủ quy định tiêu chí cụ thể.

Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 tại kỳ họp này.

Phương Anh

Ảnh: Quốc hội.

Nguồn Znews: https://znews.vn/de-xuat-chi-hon-125000-ty-dong-nang-cao-suc-khoe-toan-dan-post1605711.html