Đề xuất rà soát quy trình vận hành hồ chứa thủy điện để cắt, giảm lũ
Chia sẻ bên lề Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XV về kết quả và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang Lý Thị Lan đề xuất nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng ngập úng, sạt lở, lũ quét; phát triển công nghiệp xanh gắn với sinh kế người dân.
Chủ động trong dự báo, điều hành và ứng phó thiên tai
Theo đại biểu Lý Thị Lan, thời gian qua, tình trạng ngập úng, sạt lở, lũ quét cục bộ diễn ra ngày càng phức tạp tại nhiều địa phương, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Nguyên nhân chủ yếu là biến đổi khí hậu, mưa lớn cực đoan, tốc độ đô thị hóa nhanh, trong khi hệ thống thoát nước và công trình phòng lũ chưa đồng bộ; tình trạng lấn chiếm lòng sông, suối vẫn phổ biến, làm ảnh hưởng đến dòng chảy tự nhiên và khả năng tiêu thoát nước của lưu vực.

ĐBQH Lý Thị Lan (Tuyên Quang) phát biểu tại hội trường. Ảnh: Quang Khánh
Trong bức tranh đó, các hồ thủy điện vừa giữ vai trò điều tiết nguồn nước, bảo đảm an ninh năng lượng, vừa góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho các địa phương miền núi. Tuy nhiên, sau nhiều năm vận hành, một số hồ chứa như Thác Bà, Hòa Bình, Tuyên Quang, Sơn La… đã bị bồi lắng nghiêm trọng, giảm dung tích hữu ích và khả năng phòng lũ. Ở nhiều nơi, quy trình vận hành liên hồ chứa còn thiếu linh hoạt, thiếu gắn kết giữa các lưu vực, dẫn đến khi mưa lớn xảy ra, nước dồn về cùng lúc, gây ngập úng ở hạ du, khó điều tiết lũ ở thượng nguồn.
Đại biểu cho rằng, phát triển thủy điện là hướng đi đúng đắn, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và điều tiết nguồn nước, song cũng đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể, khoa học và nhân văn. Mục tiêu không chỉ là phát điện, mà còn phải bảo đảm an toàn, ổn định đời sống và sinh kế của người dân vùng hồ, vùng hạ du. Chỉ khi năng lượng được phát triển song hành với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, thủy điện mới thực sự là trụ cột bền vững trong chiến lược năng lượng quốc gia.
Từ thực tiễn đó, đại biểu Lý Thị Lan đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành hồ chứa và liên hồ chứa, bảo đảm phù hợp với diễn biến khí hậu và thủy văn từng lưu vực; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm, thông tin kịp thời đến người dân vùng hạ du. Đồng thời, nạo vét, khơi thông dòng chảy, tăng khả năng tiêu thoát nước và phòng lũ tại các hồ đã vận hành lâu năm.

Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XV. Ảnh: Quang Khánh
Cùng với đó, thiết lập cơ chế phối hợp vận hành liên vùng, liên tỉnh đối với các hệ thống sông lớn như sông Lô, Gâm, Chảy, Đà, để chủ động hơn trong dự báo, điều hành và ứng phó thiên tai; đầu tư hạ tầng tiêu thoát nước, củng cố khu dân cư ven sông, ven hồ, giúp người dân sống an toàn và phát triển sinh kế quanh lòng hồ như nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, dịch vụ cộng đồng.
Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường “carbon rừng”
Bày tỏ quan tâm về phát triển công nghiệp từ tiềm năng rừng đến công nghiệp xanh gắn với sinh kế người dân, đại biểu Lý Thị Lan lấy dẫn chứng: Tuyên Quang có hơn 1 triệu ha đất lâm nghiệp, chiếm 73% diện tích tự nhiên, tỷ lệ che phủ trên 61%, là nguồn lực quan trọng để phát triển công nghiệp chế biến và kinh tế xanh. Những năm qua, nhiều mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn, phát triển rừng theo tiêu chuẩn FSC đã mang lại kết quả tích cực; hàng nghìn lao động được giải quyết việc làm trong chuỗi sản xuất, chế biến và xuất khẩu gỗ. Đến nay, toàn tỉnh đã có hơn 89.000 ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, góp phần đưa Tuyên Quang trở thành một trong những địa phương đi đầu cả nước về phát triển rừng bền vững và cung cấp nguyên liệu hợp pháp cho thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, hiệu quả kinh tế của ngành lâm nghiệp vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Người dân - chủ thể của nghề rừng vẫn đang chịu nhiều thiệt thòi. Mặt khác, kinh tế rừng phát triển chưa đồng đều, giá trị gia tăng thấp, trong khi phần lớn giá trị đóng góp về môi trường và hấp thụ carbon chưa được đền đáp thỏa đáng.
Chính vì vậy, yêu cầu “phát triển lâm nghiệp bền vững, gắn với bảo đảm công bằng cho người làm nghề lâm nghiệp” đang trở thành mối quan tâm lớn của xã hội và cũng là đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn địa phương. Đây không chỉ là yêu cầu khách quan, mà là mối quan hệ hữu cơ, tất yếu. Lâm nghiệp chỉ có thể bền vững khi người làm nghề rừng - những người trực tiếp trồng, bảo vệ và nuôi dưỡng rừng được hưởng lợi công bằng, sống được bằng nghề rừng và coi rừng là tài sản của chính mình.
Đại biểu đề nghị sớm hoàn thiện khung pháp lý và hướng dẫn cụ thể để thực hiện thị trường carbon trong nước, đặc biệt tín chỉ carbon rừng. Xác lập quy trình đo đạc, xác minh, công nhận và chia sẻ lợi ích rõ ràng. Điều này được thực hiện sẽ vừa là nguồn lực to lớn để đầu tư cho lâm nghiệp, vừa bảo đảm tính công bằng đối với người làm nghề rừng.

Tuyên Quang khảo sát tình hình trồng rừng, cấp chứng chỉ FSC tại thôn Nà Héc, xã Tân Mỹ
Cùng với đó, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng vùng rừng, nhất là đường vận xuất, điểm tập kết gỗ, cơ sở sơ chế biến. Việc đầu tư ban đầu này có ý nghĩa đặc biệt đối với các tỉnh còn nhiều khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách như Tuyên Quang và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
Đồng thời, bảo đảm quyền hưởng lợi công bằng cho cộng đồng và hộ dân được giao rừng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và hộ nghèo bằng việc tăng mức khoán bảo vệ rừng hiện nay, tối thiểu cũng phải ngang bằng với định mức kinh tế kỹ thuật đã được ban hành (bình quân 2 triệu đồng/ha/năm).
Mặt khác, cần xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về hấp thụ carbon, ứng dụng công nghệ GIS, vệ tinh, trí tuệ nhân tạo để kiểm kê, giám sát rừng minh bạch, chuẩn quốc tế. Mở rộng tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào trồng rừng, chế biến gỗ, công nghệ lâm nghiệp, phát triển chuỗi giá trị gỗ hợp pháp và có chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC.
Theo đại biểu, phát triển lâm nghiệp bền vững phải gắn liền với bảo đảm công bằng cho người làm nghề lâm nghiệp - đó là con đường duy nhất để rừng thực sự trở thành sinh kế ổn định, là lá chắn sinh thái, là trụ cột của kinh tế xanh và an ninh quốc gia. Khi người dân được sống tốt nhờ rừng, họ sẽ tự nguyện bảo vệ rừng, đầu tư vào rừng và phát triển cùng rừng.
Tỉnh Tuyên Quang cam kết tiếp tục đi đầu trong phát triển lâm nghiệp có trách nhiệm, song rất cần sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ Trung ương. Vì vậy, đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan quan tâm thể chế hóa, ban hành các chính sách mang tính đột phá từ thể chế, tài chính đến hạ tầng, để người làm nghề rừng được bảo đảm công bằng, từ đó lâm nghiệp Việt Nam phát triển thực sự bền vững, hiệu quả và nhân văn.














