Đề xuất khuôn khổ cho vay ngân sách với chính phủ nước ngoài: Chặt điều kiện, giữ an toàn vốn
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đối với dự thảo Nghị định quy định việc cho vay của ngân sách nhà nước đối với chính phủ nước ngoài, nhằm hình thành cơ chế pháp lý thống nhất, kiểm soát chặt rủi ro tài chính, đồng thời tạo dư địa linh hoạt để Việt Nam hỗ trợ các quốc gia đối tác trong những trường hợp thực sự cần thiết.

Ảnh minh họa.
Bộ Tài chính cho biết, việc xây dựng dự thảo Nghị định xuất phát từ yêu cầu cụ thể hóa quy định của Luật Ngân sách nhà nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn lực ngân sách trong bối cảnh khả năng cân đối còn hạn chế. Dự thảo được thiết kế theo hướng vừa bảo đảm kỷ luật tài chính, an toàn vốn, vừa tạo cơ sở để Chính phủ xem xét cho vay trong những tình huống phù hợp với chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Theo đó, hoạt động cho vay ngân sách nhà nước đối với chính phủ nước ngoài được xác định không triển khai đại trà mà chỉ thực hiện ở phạm vi hợp lý, tập trung vào các quốc gia có quan hệ hữu nghị truyền thống, đặc biệt với Việt Nam. Việc cho vay nhằm hỗ trợ các nước bạn xử lý khó khăn kinh tế mang tính cấp thiết hoặc triển khai các dự án trọng điểm có tác động lớn, nhất là các dự án hạ tầng có kết nối với Việt Nam.
Dự thảo Nghị định chỉ quy định sử dụng nguồn ngân sách trung ương để cho vay, chưa đặt ra việc huy động ngân sách địa phương. Cách tiếp cận này nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quản lý ngân sách, phù hợp với khả năng cân đối và tổ chức thực hiện của ngân sách nhà nước, đồng thời không làm phát sinh thủ tục hành chính mới.
Về phạm vi điều chỉnh, dự thảo hướng dẫn thực hiện khoản 6 Điều 37 của Luật Ngân sách nhà nước số 89/2025/QH15 liên quan đến nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương cho hoạt động cho vay chính phủ nước ngoài. Đối tượng áp dụng bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động sử dụng ngân sách trung ương để cho vay chính phủ nước ngoài như: Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phục vụ và cơ quan liên quan.
Một trong những điểm trọng tâm của dự thảo là việc xác lập nguyên tắc cho vay chặt chẽ. Chính phủ Việt Nam và được cấp có thẩm quyền chấp thuận chủ trương mới được xem xét thực hiện. Việc cho vay phải phù hợp với khả năng ngân sách, bảo đảm an toàn vốn, hạn chế tối đa rủi ro; bên vay có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn và thực hiện nghĩa vụ giải trình về việc sử dụng vốn với Chính phủ Việt Nam.
Dự thảo cũng xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn vay, gồm: thực hiện các dự án hạ tầng thiết yếu có tính kết nối với Việt Nam; nhập khẩu hàng hóa, thiết bị của Việt Nam; và các mục đích đặc biệt khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Về phương thức cho vay, Bộ Tài chính dự kiến áp dụng hai hình thức: cho vay và thu hồi nợ thông qua ngân hàng phục vụ đối với các khoản vay thực hiện dự án hoặc nhập khẩu hàng hóa, thiết bị của Việt Nam; hoặc cho vay và thu hồi nợ trực tiếp đối với các khoản vay phục vụ mục đích đặc biệt. Đồng tiền cho vay là USD hoặc các ngoại tệ tự do chuyển đổi khác.
Thời hạn vay và thời gian ân hạn được thiết kế theo khung tối đa, gắn với mục đích sử dụng vốn: vay thực hiện dự án tối đa 15 năm, ân hạn không quá 5 năm; vay nhập khẩu hàng hóa, thiết bị tối đa 5 năm, ân hạn không quá 2 năm; vay cho các mục đích khác tối đa 10 năm, ân hạn không quá 3 năm. Lãi suất vay và lãi suất chậm trả được xem xét, quyết định trên cơ sở điều kiện thị trường tại thời điểm đề xuất.
Ngân hàng phục vụ do Bộ Tài chính lựa chọn phải là ngân hàng thương mại nhà nước hoặc ngân hàng chính sách, có kinh nghiệm cho vay và thu hồi nợ đối với chính phủ nước ngoài, đồng thời đáp ứng yêu cầu về xếp hạng tín nhiệm bằng hoặc thấp hơn Chính phủ Việt Nam tối đa 1 bậc.
Đáng chú ý, dự thảo Nghị định đặt ra các điều kiện ràng buộc nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Theo đó, vốn vay không được sử dụng để thanh toán các khoản thuế, phí, lệ phí tại nước nhận vay hoặc chi phí quản lý dự án của bên vay. Trường hợp vay để thực hiện dự án hoặc nhập khẩu hàng hóa, thiết bị của Việt Nam, bên vay phải lựa chọn nhà thầu thông qua đấu thầu giữa các nhà thầu Việt Nam; nếu lựa chọn khác, Chính phủ sẽ báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
Theo Bộ Tài chính, quy định này nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hoạt động đầu tư, thương mại ra nước ngoài, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế khi nhiều nhà tài trợ song phương vẫn áp dụng điều kiện ràng buộc về xuất xứ nhà thầu là nước cấp vốn vay.
Dự thảo cũng quy định chi tiết quy trình tiếp nhận, đánh giá đề xuất vay vốn, đàm phán và ký kết thỏa thuận vay; trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình tổ chức thực hiện; cũng như cơ chế giải ngân, thu hồi nợ, hạch toán ngân sách, giám sát và đánh giá sử dụng vốn. Công tác quản lý rủi ro được phân theo các mức độ, gắn với các biện pháp xử lý phù hợp trong trường hợp phát sinh khó khăn trong trả nợ.
Bộ Tài chính kỳ vọng, thông qua việc ban hành Nghị định, thiết lập được khuôn khổ pháp lý rõ ràng, đồng bộ cho hoạt động cho vay ngân sách nhà nước đối với chính phủ nước ngoài, qua đó vừa góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại, vừa bảo đảm an toàn tài chính quốc gia và kỷ luật ngân sách.












