Di sản của một trái tim lớn

Di sản của Nguyễn Du, trong đó có thơ chữ Hán, không chỉ là những báu vật ngôn từ mà còn là tiếng nói của một trí thức lớn luôn đau đáu về quyền sống, tinh thần hòa bình và phẩm giá con người giữa những biến động của lịch sử. Đó là nguồn mạch nhân bản, âm thầm nhưng mãnh liệt, bền bỉ theo thời gian, nhắc nhở hậu thế về lòng trắc ẩn và thiên tính thiện.

Giờ ôn luyện học sinh giỏi môn Ngữ văn với chủ đề thơ Nguyễn Du của cô và trò Trường THPT Việt Vinh, xã Bắc Quang.

Giờ ôn luyện học sinh giỏi môn Ngữ văn với chủ đề thơ Nguyễn Du của cô và trò Trường THPT Việt Vinh, xã Bắc Quang.

Ba tập thơ, một chiều sâu nội tâm

Theo nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học, bên cạnh thơ Nôm “Truyện Kiều”, thơ chữ Hán giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Không phô trương điển tích, không tìm kiếm vinh danh, hệ thống thơ chữ Hán là tiếng nói trữ tình sâu lắng và nhân văn, cất lên giữa thời tao loạn, không ngừng truy vấn ý nghĩa đích thực của kiếp người trong dòng chảy bất định của lịch sử.

Dẫu ra đời trong những giai đoạn khác nhau của đời người và thời cuộc, ba tập thơ: “Thanh Hiên thi tập”, “Nam Trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục” với gần 300 bài thơ vẫn hợp thành một chỉnh thể tư tưởng thống nhất, phản chiếu hành trình nội tâm sâu sắc của Nguyễn Du - một trí thức lớn sống giữa những đứt gãy lịch sử cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn.

“Thanh Hiên thi tập” không chỉ là tập thơ đầu tay, mà là bản tự thuật tinh thần được viết nên từ “mười năm gió bụi” phiêu bạt. Trong những năm tháng ấy, Nguyễn Du nếm trải kiếp sống long đong, niềm tin lung lay đến tận cùng, tâm hồn rơi vào trạng thái hoang mang và bế tắc. Thân phận con người qua nhãn quan thi sĩ hiện lên đầy ám ảnh, khi là “nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây”, lúc là kẻ độc hành nơi chân trời góc bể. Song, nỗi cô độc ấy không phải bi lụy, mà là kết quả của một quá trình tỉnh thức mang tính phản biện, đặt nền móng tư tưởng cho toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du về sau.

Sang “Nam Trung tạp ngâm”, Nguyễn Du rời thân phận lưu lạc để bước vào chốn quan trường. Nhưng sự thay đổi vị thế không mang lại cho ông sự an nhiên. Với ông, làm quan không phải con đường vinh thân, mà là cuộc giằng xé dai dẳng giữa đạo hiếu, đạo trung và khát vọng được sống đúng với bản thể tự do của mình. Những câu thơ tự giễu và tự phán xét như: “Không cùng với núi xanh giữ được thủy chung”, “Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề”, phơi bày sự bào mòn tinh thần của trí thức trong vòng xoáy danh lợi. Tuy nhiên, tập thơ không khép lại ở bi kịch cá nhân mà trở thành tiếng nói nhân văn mang tầm vóc xã hội, tạo bước chuyển quan trọng trên hành trình thấu cảm nhân loại của một trái tim lớn: “Nhà mười miệng trẻ đói xanh như rau”.

Ở “Bắc hành tạp lục”, Nguyễn Du không còn là nhân vật đơn độc đối diện với nỗi cô đơn của bản thân hay những tranh chấp công danh; ông trở thành mắt quan sát tinh nhạy, ghi lại từng nhịp sống, từng biến động chính trị - xã hội, đồng thời thấu cảm sâu sắc những số phận con người bị cuốn vào vòng xoáy lịch sử. Đây là nơi cái tôi cá nhân hòa vào dòng chảy thời đại, biến trải nghiệm riêng thành chứng cứ sống cho những bi kịch và hy vọng của nhân loại.

Khép lại ba tập thơ chữ Hán, có thể thấy rõ một hành trình nội tâm nhất quán và sâu sắc của Nguyễn Du: Từ nỗi cô đơn của kẻ lưu lạc, qua sự giằng xé của người làm quan, đến tầm nhìn chiêm nghiệm của một hiền triết nhân văn. Đó là chiều sâu làm nên di sản của một trái tim lớn lặng lẽ, bền bỉ theo thời gian.

Các tập thơ chữ Hán là kết tinh chiều sâu nội tâm và bản lĩnh trí thức cốt lõi làm nên tầm vóc Đại thi hào Nguyễn Du.

Các tập thơ chữ Hán là kết tinh chiều sâu nội tâm và bản lĩnh trí thức cốt lõi làm nên tầm vóc Đại thi hào Nguyễn Du.

Giá trị vượt thời gian

Không nằm ở số lượng tác phẩm hay kỹ thuật nghệ thuật, giá trị bền vững trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du chính là chiều sâu tư tưởng và năng lực thấu cảm hiếm có, nơi một trí thức lớn vừa soi chiếu bản thân, vừa đồng cảm với lịch sử và số phận nhân loại. Trong thời đại mà quyền lực, chiến tranh và biến động lịch sử thường lấn át thân phận cá nhân, Nguyễn Du đã kiên định đặt con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bị tổn thương vào trung tâm của mọi suy tư văn chương. Chính lựa chọn ấy đã giúp thơ chữ Hán của ông vượt qua giới hạn thời đại để đối thoại bền bỉ với độc giả hôm nay.

Nguyễn Du không truyền đạt những chân lý đạo đức bằng giọng lên án hay giáo huấn. Ông chọn con đường khó hơn: tự vấn. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là chuỗi câu hỏi dai dẳng về ý nghĩa của quyền lực, danh lợi, công danh và tồn tại con người trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Khi viết “Nhân sinh quyền lợi thành vô vị”, đó không phải là sự phủ định cực đoan đời sống, mà là cách thức Nguyễn Du kéo con người trở về với giá trị cốt lõi: Lòng trắc ẩn và ý thức về giới hạn của chính mình. Trong thế giới hiện đại, nơi con người vẫn không ngừng bị cuốn vào vòng xoáy vật chất và thành tựu, những câu hỏi ấy chưa từng mất đi tính thời sự.

Một giá trị vượt thời gian khác trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là tinh thần hòa giải và yêu hòa bình. Không tôn vinh bạo lực, không thần thánh hóa chiến tranh, ông kiên quyết từ chối việc lấy sinh mạng con người làm thước đo công trạng: “Giết người sau chẳng kể là công”. Thực tiễn này đã đặt Nguyễn Du vào hàng những trí thức hiếm hoi của văn học trung đại có tư duy vượt trước thời đại. Trong bối cảnh thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, tinh thần ấy càng cho thấy sức sống lâu dài của di sản Nguyễn Du.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn ghi lại mẫu hình trí thức bền vững: dám đối diện hiện thực mà không hòa tan vào quyền lực, nhận trách nhiệm xã hội nhưng luôn giữ khả năng tự vấn và tỉnh thức nội tâm. Mẫu hình ấy vẫn có ý nghĩa gợi mở đối với đời sống trí thức đương đại, khi câu hỏi về trách nhiệm, lương tri và bản lĩnh cá nhân chưa bao giờ là dễ dàng.

Trong dòng chảy giáo dục hôm nay, thơ chữ Hán của Nguyễn Du không còn là những văn bản cổ điển cần giải mã ngôn ngữ, mà đã trở thành những văn bản tư tưởng giàu tính đối thoại. Cô Diêu Thị Mỹ Linh, giáo viên Ngữ văn, Trường THPT Ngọc Hà chia sẻ: “Nếu Truyện Kiều giúp học sinh cảm nhận vẻ đẹp của tiếng Việt, thì thơ chữ Hán giúp các em hiểu thế nào là bản lĩnh của một trí thức chân chính”.

Nguyễn Du đã đi xa hơn hai thế kỷ, nhưng “trái tim lớn” của ông vẫn hiện diện trong đời sống tinh thần hôm nay. Đọc lại thơ chữ Hán của Nguyễn Du, suy cho cùng, không chỉ là trở về với một di sản văn chương, mà là trở về với những giá trị nền tảng của con người: Lòng trắc ẩn, sự tỉnh thức và trách nhiệm trước nỗi đau của đồng loại. Chính những giá trị ấy đã làm nên sức sống vượt thời gian của Nguyễn Du - một Đại thi hào, một Danh nhân văn hóa và trước hết là một con người lớn.

Mỹ Uyên

Nguồn Tuyên Quang: http://baotuyenquang.com.vn/van-hoa/202512/di-san-cua-mot-trai-tim-lon-8256797/