Điện gió ngoài khơi: Cơ chế đột phá và bài toán chọn đúng nhà đầu tư
Chiều nay, 3/12, Chính phủ trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết về chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030. Chuyên gia và nhà đầu tư ghi nhận dự thảo Nghị quyết thể hiện quyết tâm rất lớn trong việc đưa ra cơ chế đột phá để phát triển điện gió ngoài khơi; đồng thời đề xuất các tiêu chí để lựa chọn đúng nhà đầu tư có năng lực thực sự, bảo đảm thành công của dự án.
Nhiều cơ chế đột phá cho điện gió ngoài khơi
Theo TS. Nguyễn Huy Hoạch, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam, Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi năng lượng quy mô lớn, trong đó điện gió ngoài khơi được xác định là một trong những trụ cột quan trọng để đáp ứng mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng đặt mục tiêu công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030 đạt khoảng 6.000 MW (tương đương 6GW). Tuy nhiên, dù mục tiêu cao, đến nay vẫn chưa có dự án nào được quyết định chủ trương đầu tư.
Trước thực tế này, việc dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 dành riêng Chương IV quy định về phát triển điện gió ngoài khơi có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Từ góc nhìn của Hội đồng Năng lượng Gió toàn cầu (GWEC), ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của GWEC, cho rằng “dự thảo Nghị quyết thể hiện quyết tâm rất lớn của Chính phủ và Quốc hội trong việc đưa ra cơ chế đột phá cho các doanh nghiệp triển khai dự án điện một cách nhanh nhất”.
Ông Thắng đánh giá cao việc dự thảo Nghị quyết áp dụng cơ chế chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện gió ngoài khơi thay vì đấu thầu. “Điều này giúp rút ngắn thời gian lựa chọn nhà đầu tư, đồng thời đáp ứng yêu cầu “có cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi” mà Nghị quyết 70 -NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra”.
Dự thảo Nghị quyết cũng đề xuất các chính sách ưu đãi nhằm phát triển điện gió ngoài khơi. Theo đó, dự án điện gió ngoài khơi được miễn, giảm tiền sử dụng khu vực biển; được cam kết hợp đồng mua điện bảo đảm tối thiểu 90% sản lượng điện trung bình nhiều năm trong suốt thời gian trả nợ vốn vay.
TS. Nguyễn Huy Hoạch cho rằng, đây là những cơ chế “mang ý nghĩa then chốt, tạo cơ sở để nhà đầu tư xây dựng mô hình tài chính và thu xếp vốn quốc tế trong bối cảnh Việt Nam hạn chế cấp bảo lãnh Chính phủ cho các dự án năng lượng mới”.

Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu công suất điện gió ngoài khơi đến năm 2030 đạt khoảng 6.000 MW. Nguồn: TL
Hợp tác để thành công và có thể “đi tắt đón đầu”
Từ góc độ nhà đầu tư, ông Alessandro Antonioli, Tổng giám đốc Copenhagen Offshore Partners (COP), đại diện cấp cao của Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) tại Việt Nam, đánh giá cao việc dự thảo Nghị quyết phiên bản mới nhất đã bỏ quy định chỉ cho phép doanh nghiệp Việt Nam hoặc doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước được đề xuất chủ trương đầu tư cho các dự án điện gió ngoài khơi. Đây là bước điều chỉnh phù hợp vì Việt Nam đang cần huy động tối đa nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực này.
Ông Alessandro Antonioli cho biết, suất đầu tư điện gió ngoài khơi hiện ở mức rất cao, khoảng 4 tỷ USD cho mỗi GW. Loại hình năng lượng này cũng đòi hỏi công nghệ tiên tiến, kỹ thuật thi công, lắp đặt phức tạp và năng lực vận hành ở tiêu chuẩn cao.
“Để đạt mục tiêu phát triển 6GW điện gió ngoài khơi đến năm 2030, việc huy động tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước giữ vai trò then chốt. Trong Nghị quyết 70-NQ/TW, Việt Nam cũng xác định rõ nhiệm vụ mở rộng huy động vốn tư nhân và vốn nước ngoài cho các dự án năng lượng, thông qua mô hình nhà đầu tư độc lập hoặc đối tác công - tư.
Quan trọng không kém, sự tham gia của các nhà đầu tư quốc tế có kinh nghiệm với những dự án quy mô tương đương là yếu tố quan trọng để bảo đảm tiến độ và hiệu quả triển khai”, ông Alessandro Antonioli nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của GWEC, cho rằng, các nhà đầu tư quốc tế sở hữu năng lực kỹ thuật, kinh nghiệm vận hành, tiềm lực tài chính cùng mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu; đây là những yếu tố quyết định thành công của các dự án điện gió ngoài khơi, vốn có quy mô lớn và độ phức tạp cao.
“GWEC đặc biệt khuyến khích mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đây là cấu trúc hợp tác đã chứng minh hiệu quả trên thế giới và là chìa khóa để bảo đảm dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam được triển khai an toàn, đúng tiến độ và đạt chuẩn quốc tế”, ông Thắng nói.
Từ phía địa phương, nơi sẽ trực tiếp cấp phép và triển khai dự án, lãnh đạo một tỉnh cho rằng, mô hình doanh nghiệp Việt Nam liên kết với nhà đầu tư quốc tế không chỉ mang lại lợi ích tài chính, mà còn mở ra cơ hội tiếp cận công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm quốc tế.
“Khi đồng hành với những đối tác đã triển khai dự án quy mô lớn, chúng ta rút ngắn đáng kể con đường học hỏi và có thể đi tắt đón đầu trong lĩnh vực mới như điện gió ngoài khơi”, vị này nhận định.
Xác định tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư phù hợp
Song song với việc mở ra các cơ chế đột phá, dự thảo Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với nhà đầu tư điện gió ngoài khơi. Đáng chú ý, doanh nghiệp đề xuất khảo sát và doanh nghiệp được chấp thuận đầu tư phải có vốn điều lệ tối thiểu 10.000 tỷ đồng và vốn chủ sở hữu không dưới 15% tổng mức đầu tư.
Theo ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của GWEC, quy định này phù hợp với các doanh nghiệp lớn trong nước nhưng lại trở thành “rào cản” đối với nhà đầu tư nước ngoài.
“Không phải họ thiếu năng lực tài chính, mà bởi việc rót ngay 10.000 tỷ đồng vốn điều lệ vào một pháp nhân mới tại Việt Nam trong bối cảnh điện gió ngoài khơi vẫn là lĩnh vực còn mới và tiềm ẩn nhiều rủi ro là điều khó khả thi”, ông phân tích.
Từ góc độ nhà đầu tư quốc tế, ông Alessandro Antonioli, đại diện CIP, đề xuất cơ quan soạn thảo mở rộng cách tính vốn chủ sở hữu theo hướng cho phép tính cả phần vốn của công ty mẹ và các công ty liên kết.
“Việc chấp nhận tài liệu chứng minh khả năng huy động vốn chủ sở hữu tối thiểu 15% tổng mức đầu tư sẽ phù hợp hơn với thông lệ triển khai các dự án năng lượng quy mô lớn. Trong bối cảnh đó, yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu không còn cần thiết khi năng lực tài chính đã được bảo đảm qua điều kiện về vốn chủ sở hữu”, ông Antonioli nhận định.
Một điểm khác cũng được các chuyên gia đặc biệt lưu ý là quy định ưu tiên nhà đầu tư đề xuất giá điện dự kiến thấp hơn khi có từ hai hồ sơ hợp lệ cùng đăng ký một dự án. Theo ông Bùi Vĩnh Thắng, cách tiếp cận này chưa thật sự hợp lý.
Ông phân tích, giá điện ở giai đoạn đề xuất chủ trương đầu tư, vốn dựa trên nghiên cứu desktop study (nghiên cứu tại bàn mà chưa có khảo sát thực địa - PV), chỉ mang tính ước tính ban đầu và thường phải điều chỉnh đáng kể khi bước vào triển khai. Khoảng cách 2 - 3 năm giữa thời điểm phê duyệt chủ trương và thời điểm đàm phán giá điện với EVN đủ dài để thị trường, chi phí chuỗi cung ứng hay điều kiện tài chính biến động mạnh. “Điều đó đồng nghĩa giá điện dự kiến và giá điện thực tế có thể chênh lệch rất lớn”, ông nói.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rủi ro này không hề nhỏ. Ông Thắng dẫn trường hợp tại Nhật Bản: năm 2021, Mitsubishi trúng thầu ba dự án điện gió ngoài khơi nhờ đề xuất giá điện thấp nhất dù chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Khi triển khai, chi phí đội lên cùng biến động chuỗi cung ứng khiến doanh nghiệp không thể thực hiện dự án theo mức giá cam kết. Đến tháng 8/2025, Mitsubishi đã buộc phải rút khỏi cả ba dự án.
Từ bài học đó, ông Thắng cho rằng giá điện không nên là ưu tiên cao nhất khi lựa chọn nhà đầu tư, mà nên áp dụng đa tiêu chí, bao gồm năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật, kinh nghiệm triển khai, chiến lược phát triển dự án, cam kết phát triển chuỗi cung ứng trong nước... “Cách tiếp cận này sẽ giúp lựa chọn đúng nhà đầu tư có năng lực thực sự, bảo đảm dự án được triển khai bền vững và hiệu quả”, ông nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Alessandro Antonioli cho rằng dự thảo Nghị quyết nên “ưu tiên nhà đầu tư có kinh nghiệm triển khai hoặc huy động vốn cho các dự án điện gió ngoài khơi, hạ tầng biển hoặc các dự án điện quy mô lớn, thay vì chỉ dựa vào tiêu chí giá điện đề xuất thấp hơn”.
Điện gió ngoài khơi liên quan đến an ninh quốc phòng, giao thông hàng hải, mỏ dầu khí, tài nguyên biển, ngoại giao… nên cần sự tham gia của nhiều bộ, ngành. Quy mô dự án rất lớn, một dự án 500MW có thể lên tới 2 tỷ USD, việc đầu
tư dự án phức tạp, vượt xa kinh nghiệm quản lý của phần lớn địa phương.
Vì vậy, thẩm quyền chấp thuận nhà đầu tư dự án điện gió ngoài khơi nên được trao cho Thủ tướng Chính phủ, thay vì UBND cấp tỉnh như dự thảo Nghị quyết đang quy định.
Ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của Hội đồng Năng lượng Gió toàn cầu (GWEC)











