Định hình kinh tế tuần hoàn qua lộ trình cấm nhựa dùng một lần ở Việt Nam

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ chia sẻ về lộ trình cấm nhựa dùng một lần, đặt nền móng cho một cuộc cách mạng trong chính sách môi trường, chuyển hướng từ các biện pháp khuyến nghị sang điều tiết cứng rắn ở Việt Nam.

Luật Bảo vệ môi trường 2020 đánh dấu bước ngoặt trong quản trị chất thải tại Việt Nam, chuyển từ xử lý rác thải sang kiểm soát nguồn sinh chất thải, đặt trách nhiệm lên nhà sản xuất thông qua cơ chế trách nhiệm mở rộng (EPR), mở đường cho hệ sinh thái quản lý chất thải hiện đại và bền vững.

Lộ trình loại bỏ sản phẩm nhựa sử dụng một lần tại Việt Nam được khởi động từ Luật Bảo vệ môi trường 2020 và cụ thể hóa tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP.

Cùng với đó, Chỉ thị 20/CT-TTg (12/7/2025) yêu cầu triển khai quyết liệt các giải pháp ngăn chặn ô nhiễm môi trường, trong đó có thí điểm không sử dụng đồ nhựa dùng một lần trong các nhà hàng, khách sạn, quán ăn tại khu vực Vành đai 1 Hà Nội từ Quý IV/2025.

Phóng viên Tạp chí Kinh tế Môi trường đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) về lộ trình mang tính bước ngoặt này.

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

- Thưa ông, Nghị định 08/2022/NĐ-CP và Chỉ thị 20/CT-TTg đã cụ thể hóa lộ trình cấm nhựa dùng một lần ở Việt Nam như thế nào?

Nghị định 08/2022/NĐ-CP, đặc biệt là Điều 64, đặt ra các mốc thời gian cụ thể và cơ chế giám sát chặt chẽ. Ví dụ, từ năm 2026, việc sản xuất và nhập khẩu túi ni lông khó phân hủy sinh học có kích thước nhỏ hơn 50 cm x 50 cm và độ dày dưới 50 µm sẽ bị cấm, trừ trường hợp xuất khẩu hoặc đóng gói hàng hóa.

Chỉ thị 20/CT-TTg ngày 12/7/2025 yêu cầu triển khai quyết liệt các giải pháp, trong đó có thí điểm cấm đồ nhựa dùng một lần tại các nhà hàng, khách sạn, quán ăn ở khu vực Vành đai 1 Hà Nội từ Quý IV/2025.

Đây là cách tiếp cận từng bước, vừa mang tính ép buộc, vừa tạo dư địa để doanh nghiệp và người dân thích nghi.

- Hà Nội được chọn là địa phương tiên phong trong lộ trình này. Ông đánh giá ra sao về vai trò của thành phố trong việc thực hiện chính sách?

Nghị định 08/2022/NĐ-CP là công cụ triển khai chính sách, vừa mang tính ràng buộc, vừa thể hiện một bản thiết kế chính sách mang tầm chiến lược.

Theo tôi, Thành phố Hà Nội trở thành điểm tiên phong, với chương trình thí điểm áp dụng trên địa bàn trung tâm là lựa chọn hợp lý vì đây là đô thị lớn với hạ tầng quản lý tốt và lực lượng giám sát mạnh. Thí điểm tại Vành đai 1 cho phép chính quyền đánh giá tính khả thi, mức độ chấp nhận của người dân và hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ trước khi mở rộng quy mô.

Nếu thành công, mô hình này sẽ trở thành hình mẫu cho các địa phương khác, củng cố niềm tin vào khả năng thực thi chính sách môi trường trong môi trường đô thị đông đúc.

Ngày 10/7/2025, Nghị quyết quy định biện pháp giảm phát thải nhựa trên địa bàn thành phố Hà Nội (thực hiện điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Thủ đô) của HĐND thành phố Hà Nội khóa XVI được thông qua ngày, tại kỳ họp thứ 25.

Lộ trình chi tiết được đặt ra: từ 2026 cấm sử dụng đồ nhựa dùng một lần tại khách sạn, khu du lịch; từ 2027 cấm phát túi ni lông miễn phí tại chợ, cửa hàng tiện lợi; từ 2028 dừng hoàn toàn đồ nhựa dùng một lần; đến 2030 yêu cầu bao bì sử dụng tối thiểu 30% nhựa tái chế; từ 2031 cấm sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa dùng một lần, hàng chứa vi nhựa trừ sản phẩm xuất khẩu hoặc có nhãn sinh thái. Giai đoạn chuyển tiếp từ 2026-2030 áp dụng cơ chế trách nhiệm mở rộng (EPR), buộc doanh nghiệp tính chi phí xử lý chất thải vào giá thành.

Lộ trình mang tính ép buộc mềm, tạo dư địa chuyển đổi trong giai đoạn đầu, siết chặt tài chính ở giữa và kết thúc bằng cấm tuyệt đối.

- Lộ trình từ 2026 đến 2030 được mô tả là giai đoạn bản lề. Ông có thể giải thích rõ hơn về các mốc quan trọng trong giai đoạn này?

Giai đoạn 2026-2030 là thời điểm siết chặt dần các quy định, đòi hỏi sự điều chỉnh cả về luật pháp, hành chính và thị trường. Các yêu cầu như không được phát túi ni lông miễn phí, áp dụng tỷ lệ tối thiểu nhựa tái chế không còn là lời kêu gọi tự nguyện mà đã mang tính cưỡng chế, bắt buộc.

Các doanh nghiệp bắt buộc phải cân nhắc lại toàn bộ chuỗi cung ứng của mình. Nhà sản xuất bao bì phải tìm nguyên liệu mới. Doanh nghiệp bán lẻ phải thay đổi chính sách bán hàng.

Người tiêu dùng đối mặt với trả thêm chi phí. Thay đổi này có thể gây chấn động trong ngắn hạn như việc cấm pháo, yêu cầu bắt buộc đội mũ bảo hiểm, nhưng sẽ giúp hình thành thói quen tiêu dùng bền vững về lâu dài.

Tôi tin rằng, nếu được tổ chức và truyền thông thông minh, quá trình chuyển đổi có thể diễn ra trong trạng thái chấp nhận và thích nghi thay vì phản kháng.

Ký hiệu các sản phẩm nhựa dùng một lần (ảnh minh họa).

Ký hiệu các sản phẩm nhựa dùng một lần (ảnh minh họa).

- Cơ chế trách nhiệm mở rộng (EPR) được nhắc đến nhiều trong lộ trình này. Ông có thể giải thích rõ hơn về cách nó hoạt động?

EPR là một công cụ tài chính khôn ngoan. Khi các doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm nhựa phải đóng góp vào Quỹ Bảo vệ Môi trường để xử lý rác thải từ sản phẩm của họ.

Giá của một chiếc ly nhựa hay một gói bim bim sẽ phản ánh chi phí sản xuất và bao gồm cả chi phí xử lý chất thải sau sử dụng, tạo ra một áp lực kinh tế khiến sản phẩm thân thiện với môi trường trở nên cạnh tranh hơn.

EPR không chỉ giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn tạo nguồn lực để đầu tư vào công nghệ tái chế, xây dựng hệ thống thu gom và phân loại rác. Nó buộc doanh nghiệp phải suy nghĩ lại toàn bộ chuỗi cung ứng, từ nguyên liệu đến thiết kế bao bì.

Quỹ Bảo vệ Môi trường sẽ không còn phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách nhà nước mà được nuôi dưỡng từ chính dòng tiền phát sinh trong nền kinh tế tiêu dùng.

- Lệnh cấm hoàn toàn từ năm 2031 sẽ tác động thế nào đến thị trường và người tiêu dùng, thưa ông?

Sau ngày 01/01/2031 đánh dấu một bước chuyển đổi mang tính lịch sử. Việc sản xuất và nhập khẩu sản phẩm nhựa dùng một lần, bao bì khó phân hủy sinh học và hàng hóa chứa vi nhựa sẽ bị cấm, trừ các sản phẩm xuất khẩu hoặc có nhãn sinh thái.

Những mặt hàng từng gắn liền với cuộc sống hàng ngày sẽ biến mất khỏi thị trường nội địa, trừ khi chúng được tái định hình để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường.

Tôi cho rằng đây là một bước chuyển đổi lịch sử khi loại bỏ hoàn toàn các sản phẩm nhựa giá rẻ, tiện dụng nhưng gây ô nhiễm.

Những doanh nghiệp còn nuôi hy vọng kéo dài thời gian chuyển tiếp sẽ phải chấp nhận thực tế rằng đây là điểm không thể quay lại. Thị trường buộc phải tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới. Ai không chuyển đổi sẽ bị đào thải.

Về phía người tiêu dùng có thể phải trả thêm chi phí ban đầu, nhưng về lâu dài, thói quen tiêu dùng bền vững sẽ hình thành. Tôi cho rằng, cũng sẽ tương tự như việc bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm hay cấm pháo.

- Theo ông, đâu là thách thức lớn nhất trong việc thực hiện lộ trình này?

Thách thức lớn nhất theo tôi là thay đổi hành vi của cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. Doanh nghiệp cần đầu tư lớn để chuyển đổi dây chuyền sản xuất và tìm nguyên liệu thay thế. Người tiêu dùng phải chấp nhận chi phí cao hơn và thay đổi thói quen sử dụng túi ni lông hay đồ nhựa tiện lợi.

Tuy nhiên, nếu truyền thông được thực hiện thông minh và chính sách được thực thi nhất quán, sự thích nghi sẽ diễn ra thay vì phản kháng.

Bên cạnh đó, tôi cho rằng vai trò của các địa phương trong việc cụ thể hóa quy định và giám sát thực thi cũng rất quan trọng để đảm bảo lộ trình không bị chậm trễ.

 Nếu truyền thông được thực hiện thông minh và chính sách được thực thi nhất quán, sự thích nghi sẽ diễn ra thay vì phản kháng

Nếu truyền thông được thực hiện thông minh và chính sách được thực thi nhất quán, sự thích nghi sẽ diễn ra thay vì phản kháng

- Vậy ông có kỳ vọng gì về tác động của lộ trình này đối với môi trường và nền kinh tế?

Tôi cho rằng lộ trình này không chỉ giảm ô nhiễm nhựa mà còn mở ra không gian đổi mới cho toàn bộ chuỗi giá trị, từ sản xuất đến tiêu dùng.

Theo tôi, các mô hình sáng tạo như bao bì phân hủy sinh học, tái sử dụng ly hay cho thuê hộp đựng sẽ có cơ hội bùng nổ. Doanh nghiệp nhanh nhạy sẽ chiếm lĩnh thị phần, còn thị trường sẽ chuyển từ cạnh tranh giá rẻ sang cạnh tranh bằng giải pháp bền vững.

Về lâu dài, đây là cơ hội để Việt Nam xây dựng một nền kinh tế tuần hoàn, giảm tác động xấu đến đại dương, con người và tự nhiên.

Trân trọng cảm ơn ông!

Bảo Loan

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/dinh-hinh-kinh-te-tuan-hoan-qua-lo-trinh-cam-nhua-dung-mot-lan-o-viet-nam-101798.html