Đô thị hóa 'nóng', hạ tầng 'nguội': Bất cập quy hoạch đang dần được rút ngắn
Mất cân bằng về quy hoạch, hạ tầng, không gian xanh…tại TP.HCM kéo dài đã nhiều năm, không chỉ ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống người dân mà còn kìm hãm mục tiêu tăng trưởng bền vững của TP.HCM.

Tại Diễn đàn “Phát triển đô thị thông minh, bền vững và bao trùm năm 2025” diễn ra vào chiều 5/11, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn cho biết, quá trình đô thị hóa vẫn còn đối mặt nhiều thách thức như tốc độ tăng nhanh nhưng thiếu đồng bộ, áp lực về hạ tầng, nhà ở và môi trường, cùng tác động ngày càng rõ của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh.
Tại Diễn đàn, ông Nguyễn Duy Hưng - Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cũng cho biết, phát triển đô thị vẫn còn nhiều hạn chế: Quy hoạch chồng chéo, thiếu liên kết; hạ tầng chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa; tình trạng ùn tắc giao thông, ngập úng, ô nhiễm môi trường, thiếu không gian xanh và công trình công cộng diễn ra phổ biến, đặc biệt ở Hà Nội và TPHCM. Tình trạng “quy hoạch treo”, “dự án treo” gây lãng phí nguồn lực xã hội và ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Đơn cử, khu đô thị Bình Quới – Thanh Đa (quận Bình Thạnh cũ) được quy hoạch làm khu du lịch sinh thái từ những năm 1990 với diện tích 427 ha, nhưng hơn 30 năm qua dự án vẫn chỉ nằm trên giấy. Việc dự án “treo” suốt 31 năm khiến cuộc sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng và nguồn lực đất đai bị lãng phí. Đây chỉ là một trong hàng loạt dự án “vẽ ra rồi bỏ đó” ở TP.HCM, gây bức xúc cho người dân tại các khu vực liên quan.
Tình trạng điều chỉnh quy hoạch thiếu ổn định cũng khiến diện mạo đô thị phát triển tự phát, manh mún. Các chuyên gia cho rằng một số quy hoạch của Thành phố chưa phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn, dẫn đến vừa thừa vừa thiếu: Nơi thì đất bỏ hoang, nơi lại thiếu quỹ đất cho hạ tầng công cộng. Đặc biệt, “quy hoạch treo”, “dự án treo” kéo dài đã gây lãng phí nguồn lực xã hội và ảnh hưởng đến đời sống người dân. Những khu vực nằm trong quy hoạch treo thường xuống cấp, người dân không dám sửa chữa nhà cửa và luôn sống trong tâm trạng thấp thỏm chờ dự án triển khai.

TP.HCM cũng đang chứng kiến tốc độ gia tăng dân số và phương tiện giao thông quá nhanh, trong khi hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cầu cống, cấp thoát nước…) không được mở rộng tương xứng. Hệ quả là ùn tắc giao thông trở thành chuyện “thường ngày” trên nhiều tuyến phố, đặc biệt vào giờ cao điểm. Hiện nay, thành phố có khoảng 9,6 triệu phương tiện (trong đó hơn 1 triệu ô tô và 8,6 triệu xe máy) lưu thông thường xuyên. Mật độ phương tiện dày đặc đến mức hệ thống giao thông hiện hữu không đủ sức đáp ứng, khiến kẹt xe kéo dài xảy ra tại 336 điểm có nguy cơ ùn tắc, với 186 điểm nguy cơ cao tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm và các cửa ngõ.

Kẹt xe thường xuyên gây tổn thất kinh tế và sức khỏe - Ảnh: Internet
Tình trạng kẹt xe không chỉ gây ức chế cho người dân mà còn tạo gánh nặng kinh tế khổng lồ. Các nghiên cứu ước tính ùn tắc giao thông khiến TP.HCM thiệt hại khoảng 6 tỷ USD mỗi năm (tương đương hơn 140 nghìn tỷ đồng). Cùng với đó, hệ thống thoát nước lạc hậu khiến ngập lụt cũng trở thành vấn nạn kinh niên, gây thiệt hại khoảng 1,3 tỷ USD mỗi năm.

Hiện tượng mưa lớn kết hợp triều cường thường xuyên biến đường phố thành sông, nhiều khu dân cư chìm trong nước, giao thông hỗn loạn, sinh hoạt đảo lộn. Trước đây, thành phố từng xử lý giảm xuống còn khoảng 20 điểm ngập lớn. Tuy nhiên, sau khi mở rộng địa giới hành chính, TP.HCM hiện có hơn 80 điểm ngập mỗi khi mưa to hoặc triều dâng. Nhiều khu vực mới phát sinh ngập do tốc độ đô thị hóa quá nhanh trong khi hạ tầng thoát nước không theo kịp nhu cầu.
Đô thị hóa “nóng” nhưng hạ tầng “nguội” đã dẫn đến mất cân bằng giữa cung và cầu về hạ tầng đô thị tại TP.HCM. Giao thông quá tải làm người dân mất hàng giờ mỗi ngày trên đường, giảm năng suất lao động và chất lượng cuộc sống. Ngập úng xảy ra ngày càng nghiêm trọng hơn không chỉ gây thiệt hại tài sản, cản trở hoạt động kinh doanh mà còn đe dọa sức khỏe cộng đồng.

Hiện nay toàn Thành phố chỉ có hơn 500 ha công viên cây xanh, tương ứng bình quân 0,55 m² cây xanh/người. Con số này quá thấp so với tiêu chuẩn đô thị bền vững (mục tiêu quy hoạch của TP.HCM đến năm 2025 là 3 m²/người và đến 2030 là 5 m²) cũng như so với các thành phố lớn trên thế giới (ví dụ Singapore đạt 30,3 m²/người, Seoul 41 m²/người). Mảng xanh ít ỏi khiến thành phố chịu hiện tượng “đảo nhiệt đô thị”, không khí bị ô nhiễm và người dân thiếu không gian nghỉ ngơi, sinh hoạt lành mạnh. Nghiên cứu cho thấy tại khu vực nội đô, tỷ lệ diện tích công viên trên đất đô thị rất thấp so với tiêu chuẩn, các tiện ích công cộng như sân chơi, quảng trường cũng không đáp ứng được nhu cầu người dân.

Thành phố thiếu cây xanh. Ảnh: Internet
Đáng lo ngại, nhiều khu đô thị và khu dân cư mới “mọc lên như nấm” ở vùng ven nhưng lại thiếu hẳn các tiện ích đi kèm như công viên, sân chơi, trường học, bệnh viện. Nhiều chủ đầu tư dự án chỉ tập trung xây nhà ở để bán mà chậm trễ trong việc xây dựng hạ tầng xã hội như trường học, trạm y tế… đã cam kết. Họ ưu tiên hoàn thiện nhanh nhà cửa để thu hút dân về ở, dẫn đến cư dân phải dồn sử dụng các trường học, bệnh viện hiện hữu, gây quá tải cho những cơ sở này. Chẳng hạn, tại một số quận huyện ngoại thành, sĩ số lớp học luôn vượt chuẩn vì thiếu trường mới, bệnh viện tuyến quận luôn trong tình trạng quá tải do dân số tăng nhanh nhưng chưa kịp xây thêm cơ sở y tế. Việc thiếu các tiện ích công cộng ngay tại nơi ở khiến đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, đồng thời làm gia tăng áp lực lên hạ tầng vùng trung tâm (vì nhiều người phải quay về trung tâm để sử dụng dịch vụ giáo dục, y tế, vui chơi giải trí...).

Thiếu công trình giải trí, cây xanh. Ảnh: Internet
TP.HCM cũng thuộc nhóm đô thị có tỷ lệ đất dành cho giao thông, công trình công cộng rất thấp so với chuẩn. Đất công cộng, đất trường học trên đầu người ở nhiều quận mới chỉ bằng một nửa hoặc một phần ba so với khu vực nội thành cũ. Sự mất cân đối này khiến chất lượng sống giữa các khu vực khác biệt rõ: Cư dân khu trung tâm được hưởng nhiều tiện ích hơn, trong khi người dân vùng ven thiếu thốn không gian sinh hoạt và phải di chuyển xa để tiếp cận dịch vụ công.

Hàng chục năm qua, TP.HCM phát triển theo mô hình đô thị “đơn cực” tập trung hầu hết cơ hội việc làm, dịch vụ, thương mại vào khu lõi trung tâm, dẫn đến hiện tượng mọi dòng người và của cải đổ dồn về một điểm, cụ thể là khu vực quận 1, quận 3 và lân cận. Hậu quả là trung tâm TP.HCM trở nên quá tải trầm trọng, từ kẹt xe, ô nhiễm cho đến giá đất và chi phí sinh hoạt tăng vọt.
Hiện nay, 23/24 điểm nguy cơ ùn tắc giao thông của toàn thành phố nằm tại khu vực trung tâm, cho thấy mật độ hoạt động kinh tế, xã hội quá cao tại đây. Trong khi đó, các quận huyện vùng ven và đô thị vệ tinh (như TP.Thủ Đức, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè…) vẫn chưa phát huy được vai trò đáng kể để chia sẻ gánh nặng với đô thị lõi. Sự mất cân đối giữa nội thành và ngoại thành thể hiện ở chỗ: Mặt bằng giá đất khu trung tâm cao gấp nhiều lần vùng ven; thu nhập bình quân của dân cư nội đô cũng cao hơn ngoại thành và các tiện ích công cộng (trường chuẩn, bệnh viện lớn, trung tâm thương mại, khu vui chơi) tập trung chủ yếu ở trung tâm, ít hiện diện tại vùng rìa.
Một ví dụ dễ thấy là tình trạng hàng trăm nghìn người dân từ các huyện ngoại thành, đô thị vệ tinh (như Dĩ An, Thuận An – Bình Dương, Biên Hòa – Đồng Nai) mỗi ngày phải đổ vào trung tâm TP.HCM để làm việc và học tập. Dòng người khổng lồ này gây áp lực lên hạ tầng giao thông kết nối, dẫn đến ùn tắc nghiêm trọng tại các cửa ngõ vào thành phố (như quốc lộ 13, quốc lộ 1K, cao tốc TP.HCM – Long Thành). Trong khi đó, nếu các đô thị vệ tinh phát triển tốt hơn với nhiều việc làm và dịch vụ tại chỗ, người dân sẽ không cần di chuyển xa như vậy.

TP.HCM chuyển đổi sang phát triển đô thị đa cực, đa trung tâm
“
TP.HCM đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi sang phát triển đô thị đa cực, đa trung tâm có tổ chức. Chỉ khi làm được điều này, thành phố mới giảm tải cho khu trung tâm, phân bố lại dân cư, lao động hợp lý hơn giữa các khu vực, đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển nội thành - ngoại thành.

Đứng trước những bất cập, TP.HCM đang nỗ lực thực hiện các giải pháp và định hướng để tái cân bằng quá trình phát triển đô thị.
1 - Về giải pháp hạ tầng
Thành phố đang đẩy nhanh nhiều công trình giao thông quan trọng vốn đình trệ lâu nay đã được tái khởi động
Nhờ cơ chế đặc thù (Nghị quyết 98 của Quốc hội), Thành phố đang đẩy nhanh nhiều công trình giao thông quan trọng vốn đình trệ lâu nay đã được tái khởi động. Chẳng hạn, dự án đường Vành đai 2 chuẩn bị khởi công đoạn tuyến dài 2,5 km từ đường Võ Nguyên Giáp đến Phạm Văn Đồng với tổng vốn 4.543 tỷ đồng, giải quyết ùn tắc cửa ngõ phía Đông; Dự án Vành đai 3 cũng đang gấp rút giải phóng mặt bằng để kịp hoàn thành năm 2026-2027. Các nút giao cửa ngõ như An Phú, Mỹ Thủy… được ưu tiên nguồn lực thi công, nhằm sớm giải tỏa điểm nghẽn giao thông ra vào cảng Cát Lái và cao tốc phía Đông.
Bên cạnh đó, TP.HCM đang xúc tiến kế hoạch phát triển giao thông công cộng làm xương sống cho đô thị. Dự án đường sắt đô thị (metro) số 1 Bến Thành – Suối Tiên đã cơ bản hoàn thành.
Thành phố cũng đã ban hành kế hoạch chuyển đổi xanh trong giao thông, đặt mục tiêu đến năm 2030 toàn bộ xe buýt dùng điện hoặc năng lượng sạch.

Dự án đường Vành đai 2 chuẩn bị khởi công đoạn tuyến dài 2,5 km từ đường Võ Nguyên Giáp đến Phạm Văn Đồng với tổng vốn 4.543 tỷ đồng
2 - Về ngập nước
TP.HCM đã tái khởi động dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng
Sau 5 năm đình trệ vì vướng mắc pháp lý. UBND TP đã tháo gỡ dứt điểm các vướng mắc để dự án chống ngâp vận hành chậm nhất vào cuối năm 2026. Khi hoàn thành, công trình quy mô lớn này sẽ bảo vệ 570 km² vùng trung tâm với 6,5 triệu dân khỏi ảnh hưởng triều cường, kết hợp cùng các dự án cải tạo kênh rạch, nâng cấp cống thoát nước nội đô để giải quyết cơ bản vấn nạn ngập úng.
Các chuyên gia còn khuyến nghị Thành phố nên áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp “sống chung với nước”: Tăng diện tích bề mặt thấm nước (làm hồ điều tiết, vật liệu thấm tại các công trình), quản lý chặt việc san lấp kênh rạch, khôi phục không gian chứa nước tự nhiên, đồng thời nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo sớm cho người dân. Việc quy hoạch đô thị cũng cần tính đến kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng để thiết kế hạ tầng có khả năng chống chịu tốt hơn với thiên tai.

3 - Về cây xanh
TP.HCM đưa ra chủ trương chuyển đổi một số khu “đất vàng” thành công viên ở ngay trung tâm

Khu Bến Nhà Rồng
Ví dụ như khu đất số 1 Lý Thái Tổ (quận 10 cũ) hay khu Bến Nhà Rồng (quận 4 cũ). Đây là các khu đất giá trị cao nhưng lãnh đạo thành phố quyết định ưu tiên dành làm công viên, mảng xanh phục vụ cộng đồng thay vì phát triển thương mại. Theo quy hoạch mới được duyệt đến 2040, các khu đất này sẽ được cập nhật thành đất công viên cây xanh.
CÁC GIẢI PHÁP VÀ SỰ NỖ LỰC CỦA TP.HCM ĐÃ MANG LẠI KẾT QUẢ TÍCH CỰC
Trong 5 năm qua, với nhiều giải pháp và nỗ lực, TP.HCM đã đạt những con số và kết quả tích cực: TP.HCM đã phát triểnthêm 237,5 ha công viên. Hơn 42.500 cây xanh được trồng mới. Dự kiến đến hết 2025 được Thành phố tăng thêm 242,5 ha đất công viên, nâng tỷ lệ bình quân lên khoảng 0,74 m² cây xanh/người. Nhiều quận huyện cũng tận dụng các quỹ đất xen kẹt để làm vườn hoa, sân chơi nhỏ cho cộng đồng; Thành phố cũng khuyến khích sự chung tay của người dân và doanh nghiệp trong việc trồng cây, cải tạo cảnh quan, nhằm xây dựng “TP.HCM xanh” trong tương lai gần.

Thành phố đang rà soát, kiến nghị hoàn thiện hệ thống luật pháp liên quan đến quy hoạch, đầu tư công, đất đai… theo hướng phân cấp, trao quyền chủ động nhiều hơn cho đô thị đặc biệt. Việc thực thi các quy hoạch cũng sẽ được giám sát chặt chẽ, tránh tình trạng tùy tiện điều chỉnh hay phê duyệt dự án thiếu căn cứ khoa học. Lãnh đạo TP.HCM đang cho thấy sự cầu thị, lắng nghe phản biện của giới chuyên gia cũng như người dân trong quá trình triển khai các chương trình phát triển đô thị lớn.
Theo Quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn 2060. Thành phố sẽ phát triển theo mô hình đô thị đa trung tâm, hình thành 6 phân vùng đô thị đa chức năng với hạt nhân là các khu vực trọng điểm về tài chính, thương mại, du lịch, văn hóa, khoa học kỹ thuật….
Cấu trúc đa cực này kỳ vọng tạo ra các cực tăng trưởng mới ở phía Đông, Tây, Nam, Bắc, giảm áp lực cho lõi trung tâm hiện hữu và thúc đẩy phát triển đồng đều trên toàn vùng đô thị.
Song song đó, việc liên kết với các tỉnh lân cận trong vùng đô thị mở rộng (Đồng Nai, Bình Dương, Long An…) sẽ phân bổ hợp lý chức năng đô thị và sử dụng hiệu quả nguồn lực vùng












