Đời gùi
Với các dân tộc thiểu số trên địa bàn Kon Tum (cũ), gùi luôn là vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống. Nó hiện ra hàng ngày, theo bước chân người đi rẫy, đi ruộng; vào rừng, xuống suối, ra sông.
Trong ngôi nhà sàn nằm nép mình trong một khu vườn ở cuối làng Kon Kơ Tu, xã Đăk Rơ Wa, A Hung thường ngồi đan gùi bên cạnh cửa sổ luôn mở rộng đón gió.
Trong làng, A Hung là một người đan giỏi. Hồi mới học đan, ông nội khen A Hung có đôi mắt sáng, trí nhớ tốt, chỉ nhìn qua vài lần đã có thể làm theo; có đôi tay khéo léo, biết bắt cái nan nghe theo mình. Ban đầu là học đan những thứ đơn giản như sọt đựng nông sản, sau đó mới đan rổ, rá, dụng cụ bắt cá... cuối cùng là học đan gùi.
Những cái gùi đầu tiên, ông nội còn phải ngồi bên chỉ bảo tỉ mỉ từ cách chuốt nan, trang trí hoa văn, làm đế, dây gùi... Đến một ngày, ông thở phào, vỗ vai “A Hung à, mày làm được rồi đấy”, từ đó không ngồi bên nữa. A Hung lâng lâng mất mấy ngày.
Dù đã đan nhiều, quen tay đến mức nhắm mắt lại cũng có thể đặt nan, nhưng mỗi lần bắt tay vào đan gùi mới, A Hung vẫn thấy run run, như chạm đến một miền huyền thoại, vượt qua thể vật chất bằng mây tre kia. Thế nên, vợ A Hung mới nói, anh ấy không chỉ đan gùi, mà còn gửi vào đó tất cả tình cảm của mình.

Anh A Hung, ở làng Kon Kơ Tu, xã Đăk Rơ Wa chuốt nan đan gùi.
Là người giàu kinh nghiệm đan lát, A Hung luôn chuẩn bị sẵn nguyên vật liệu để đan trong nhiều ngày. Hằng năm, khi mùa khô đến, những ngày cuối con trăng (cuối tháng âm lịch), A Hung vào rừng, tìm chặt những cây tre, lồ ô không còn non nhưng chưa quá già và những dây mây già vàng óng ả.
Về nhà, mây thì buộc trên gác bếp để dùng dần. Tre và lồ ô được cắt thành ống, khi rảnh rỗi sẽ chẻ, vót nan, rồi cũng treo trên gác bếp, khi cần dùng mới lấy xuống, đem ngâm nước cho mềm, để ráo rồi mới đan.
“Họ hàng” nhà gùi của dân tộc Ba Na cũng “đông đúc” vô cùng. Tuy đều mang tên là gùi, nhưng lại có nhiều “chi” khác nhau, theo kiểu dáng, công dụng và kích cỡ. Có loại gùi một lớp được đan dày, dùng đựng hoặc cõng lúa gạo; có gùi đan thưa để đi lấy củi, rau, măng, lấy nước; có loại gùi nhỏ (teo) dùng khi trỉa lúa, tuốt lúa.
Cũng có loại gùi được đan 2 hoặc 3 lớp khá công phu, có nắp, dùng đựng quần áo, vải vóc. Có gùi dành cho đàn ông; gùi cho phụ nữ; gùi cho trẻ em.
Phụ nữ đi rẫy, gùi đeo sau lưng đựng cơm trưa, quả bầu khô đựng nước, chiếc rựa... Chiều về, trong gùi lấp ló mớ rau rừng tươi non, trái bắp chuối tím đỏ, nhúm cà đắng xanh giòn. Có khi chỉ là mấy bó ngo (gỗ thông) chẻ nhỏ, để nhóm bếp những ngày mưa gió.
Đàn ông đi rẫy không thể thiếu k’lek (gùi dành riêng cho đàn ông). K’lek có 3 ngăn, ôm trọn lấy lưng để dễ luồn lách, leo trèo trong rừng, trong 3 ngăn gùi có đủ đồ dùng cho những ngày lang thang đây đó. Đến nay, nhiều nhà vẫn còn đựng quần áo, vật dụng thiết yếu khác bằng gùi.
Dù đàn ông Ba Na làm ra cái gùi, nhưng phụ nữ Ba Na mới là những người gắn bó với gùi gần như hết cuộc đời. Từ 4- 5 tuổi đã thấy chiếc gùi be bé trên lưng, đến 60 - 70 tuổi rồi vẫn thấy cõng gùi lên rẫy, ra ruộng.
Cho đến khi nằm một chỗ trên giường thì đôi vai gầy mới tạm rời chiếc gùi, và chỉ khi chết đi thì mới vĩnh biệt chiếc gùi. Chỉ với cái gùi đơn sơ, họ đã gùi từ quá khứ cho đến hiện tại, và có thể đến cả tương lai.
Bỗng dưng lại nhớ đến những câu thơ giàu hình ảnh của ông Rơ Chăm Long, nguyên Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Kon Tum (cũ), hiện trú tại phường Kon Tum: “Mẹ mang cái gùi suốt tháng năm/ Tháng năm dần trôi, gùi không mỏi/ Mẹ gùi cái bầu nước/ Mẹ gùi cái lúa để ăn/... Một đời mẹ bao nhiêu đời gùi”.
Bài, ảnh: LÊ HẢI
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/doi-gui-70498.htm












