Dự thảo chính sách tiền lương giáo viên dưới góc nhìn công dân

Từ 1/1/2026 - cột mốc đáng nhớ khởi đầu cho lộ trình cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập. Điều này mở ra niềm hy vọng cho đội ngũ nhà giáo suốt bao năm nay âm thầm giữ lửa tri thức giữa những chông chênh đời thường.

Lần đầu tiên trong lịch sử cải cách tiền lương, nghề giáo được xếp vào nhóm có mức lương cao nhất trong hệ thống bậc thang hành chính sự nghiệp.

Đây là sự khẳng định đáng trân trọng từ Nhà nước, rằng vai trò giáo dục không thể mãi là nghề "chạy bằng đam mê" mà phải được trả công xứng đáng.

Tuy nhiên, một chính sách dù nhân văn đến đâu vẫn cần đảm bảo nguyên lý cốt lõi: công bằng. Và trong chính dự thảo đang được kỳ vọng này, vẫn tồn tại một nghịch lý âm ỉ – đó là hệ số đặc thù có nguy cơ làm lu mờ nỗ lực và phấn đấu nâng chuẩn nghề nghiệp của nhiều giáo viên.

Khi hệ số đặc thù trở thành đặc ân cho người chưa đạt chuẩn

Theo cách tính lương mới, thu nhập của giáo viên không chỉ dựa vào hệ số lương cơ bản mà còn được nhân thêm hệ số đặc thù, dao động từ 1.1 đến 1.6. Đây là điểm mới rất đáng ghi nhận. Bởi nó thay thế cơ chế phụ cấp từng phần trước kia, phản ánh đặc thù nghề giáo như một thành tố chính thức trong lương.

Thế nhưng, vấn đề bắt đầu nảy sinh từ cách sắp xếp hệ số này. Thay vì tăng dần theo trình độ và hạng chức danh như lẽ thường, bảng hệ số lại trao mức cao nhất 1.6 cho giáo viên… chưa đạt chuẩn trình độ.

Một vài ví dụ cho thấy sự bất hợp lý rõ ràng:

Giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng, có hệ số lương 4.89 x hệ số đặc thù 1.6 = 18.308.160 đồng. Giáo viên trung học cơ sở có bằng đại học (chuẩn), hệ số 4.98 x 1.45 = 16.897.140 đồng

Bảng lương giáo viên dự bị đại học cao cấp, giáo viên trung học phổ thông cao cấp; Giáo viên giáo dục nghề nghiệp cao cấp; Các chức danh tương đương khác chỉ có hệ số lương đặc thù 1,1.

Trong khi, Giáo viên tiểu học, mầm non chưa đạt trình độ chuẩn (trình độ trung cấp); Giáo viên giáo dục nghề nghiệp; Các chức danh tương đương khác thì hệ số lương đặc thù áp dụng là 1,6.

Hệ số lương đặc thù ảnh hưởng khá lớn đến tổng thu nhập của một giáo viên. Ví dụ, cùng có thâm niên nghề 30 năm, giáo viên A. dạy trung học cơ sở (chưa đạt chuẩn có trình độ cao đẳng), hệ số lương là 4.89, có 1.6 hệ số đặc thù, 30% phụ cấp thâm niên và 35% phụ cấp nghề.

Ta sẽ có, 4,89 x 2,34 x1.6 = 18.308.160. Giáo viên này có 30% phụ cấp thâm niên và 35% phụ cấp nghề. Tổng thu nhập sẽ là: 30.208.464 đồng.

Giáo viên B. cũng là giáo viên trung học cơ sở hạng II có 30 năm trong nghề, hệ số lương 5.02, hệ số đặc thù là 1.3, phụ cấp nghề là 35%.

Ta sẽ có, 5.02 x 2,34 x 1.3 = 15.270.840 đồng. Giáo viên B có 30% phụ cấp thâm niên và 35% phụ cấp nghề. Tổng thu nhập sẽ là: 25.196.886 đồng. Rõ ràng, giáo viên chưa đạt chuẩn mỗi tháng thu nhập cao hơn giáo viên đạt chuẩn đã thăng hạng hơn 5 triệu đồng. Đây là mức chênh lệch khá lớn.

Người học cao, thăng hạng lại nhận thấp hơn người chưa đạt chuẩn. Và đây không còn là "cảm giác bất công" nữa, mà là phép tính cụ thể, rành mạch.

Khi chính sách vô tình "trừng phạt" sự phấn đấu và ưu ái sự "dậm chân tại chỗ"

"Tôi từng tin rằng học lên, phấn đấu sẽ được ghi nhận. Nhưng giờ thì thấy... tiếc vì đã cố gắng." hay "Biết thế không cần học nâng cao, không cần thăng hạng mỗi tháng lại có thêm mấy triệu tiền lương, sướng thật".

Đó là lời tâm sự thật lòng của một số giáo viên vừa tốt nghiệp đại học và thăng hạng sau nhiều năm nỗ lực. Cảm giác bị bỏ lại phía sau bởi một chính sách vô tình… làm lạc chuẩn động lực là điều đáng lo hơn cả chênh lệch thu nhập.

Lương không chỉ là công cụ vật chất mà còn là chất xúc tác tinh thần, là tín hiệu xã hội cho thấy người lao động được trân trọng thế nào. Một chính sách khiến người có trình độ cảm thấy "lỗ" hơn người chưa đạt chuẩn, dù là do "tạm thời hỗ trợ" sẽ vô tình làm suy giảm niềm tin và động lực bền vững trong đội ngũ giáo viên.

Kiến nghị điều chỉnh: Trả công theo trình độ, hỗ trợ theo hoàn cảnh

Một chính sách tiền lương khuyến học, khuyến tài phải đứng trên hai chân vững chắc:

Trả lương xứng đáng với trình độ, vị thế và năng lực nghề nghiệp. Hỗ trợ người chưa đạt chuẩn bằng cơ chế khác như phụ cấp vùng khó, chính sách thu hút, bồi dưỡng nâng chuẩn.

Vì thế, tôi kiến nghị: Tái thiết kế hệ số đặc thù tăng dần theo hạng và trình độ. Mức 1.6 chỉ nên dành cho giáo viên cao cấp. Giáo viên chính và hạng III cần được hưởng mức tương xứng như 1.5 – 1.45.

Trường hợp đặc biệt như giáo viên vùng sâu chưa đạt chuẩn, nên tạm áp dụng mức 1.6 nhưng có thời hạn kèm cam kết nâng chuẩn.

Truyền thông rõ ràng để giáo viên hiểu: chính sách khuyến học, không khuyến… trì trệ.

Đừng để người gieo chữ phải ngậm ngùi vì đã cố gắng

Một chính sách tốt không chỉ để "chia bánh" mà còn để gieo niềm tin. Và niềm tin đó chỉ trọn vẹn khi những người đã không ngừng học tập, nâng chuẩn, phấn đấu nghề nghiệp cảm thấy mình được trân trọng không chỉ bằng lời, mà bằng lương, bằng thứ "công cụ mềm" để giữ chân người giỏi trong giáo dục.

Đừng để hệ số đặc thù trở thành "lằn ranh nghịch lý" giữa người phấn đấu và người trì trệ. Hãy để nó là cánh tay nối dài của chính sách khuyến học quốc gia, truyền cảm hứng cho từng thầy cô vững tin đứng lớp, tiếp tục hành trình vun đắp nhân tâm khơi sáng tương lai.

Phan Huyền

Nguồn Công dân & Khuyến học: https://congdankhuyenhoc.vn/du-thao-chinh-sach-tien-luong-giao-vien-duoi-goc-nhin-cong-dan-179250731145706358.htm