Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi)Nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung phù hợp thực tiễn

Dự kiến tại Kỳ họp thứ Mười sắp tới, Quốc hội Khóa XV sẽ xem xét, thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Theo đó, nhiều nội dung sẽ được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp.

Chỉ quy định những chính sách lớn, nội dung có tính nguyên tắc

Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) lần này (dự thảo Luật) có sự đổi mới đáng kể về kỹ thuật lập pháp nhằm thực hiện nghiêm túc Kết luận số 119-KL/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị; thể hiện rõ từ bố cục đến nội dung.

Thường trực HĐND thành phố Đà Nẵng giám sát tình hình triển khai thực hiện một số công trình động lực, trọng điểm trên địa bàn thành phố Ảnh: H. NAM

Thường trực HĐND thành phố Đà Nẵng giám sát tình hình triển khai thực hiện một số công trình động lực, trọng điểm trên địa bàn thành phố Ảnh: H. NAM

Dự thảo Luật gồm 5 chương, 44 điều, giảm 47 điều so với Luật hiện hành (bỏ 55 điều, kế thừa và sửa đổi 36 điều, bổ sung mới 08 điều); giảm đáng kể các điều, khoản và lược bỏ toàn bộ quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát, cơ chế phân công, tổ chức thực hiện và một số nội dung khác có nhiều biến động, thường xuyên thay đổi trong thực tiễn triển khai giám sát để giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết. Điều này vừa thể hiện rõ chủ trương luật chỉ quy định những chính sách lớn, nội dung có tính nguyên tắc, ổn định; vừa bảo đảm tính linh hoạt của Luật trong quá trình triển khai thực hiện.

Giám sát của Quốc hội, HĐND là việc các cơ quan dân cử thực hiện sự ủy quyền của Nhân dân để giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, là hình thức thể hiện quyền giám sát của Nhân dân thông qua cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (HĐND). Như vậy, về mặt bản chất, giám sát của cơ quan dân cử là hoạt động nhằm kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước và dự thảo Luật đã chỉnh lý khái niệm "giám sát" để thể hiện rõ tính chất này (khoản 1, Điều 2); đồng thời, là căn cứ quan trọng để đổi mới cách thức, phương pháp thực hiện hoạt động giám sát.

Bên cạnh đó, việc bổ sung 3 nguyên tắc tại Điều 3 có ý nghĩa quan trọng, định hướng toàn bộ hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng và đáp ứng nguyện vọng của cử tri. Ngoài ra, hoạt động giám sát phải gắn kết với các chức năng quan trọng khác của Quốc hội, HĐND để không chỉ đánh giá việc tuân thủ pháp luật, thúc đẩy các cơ quan nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, mà qua đó còn cung cấp thông tin, căn cứ thực tiễn để Quốc hội, HĐND kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, “điểm nghẽn” về thể chế, chính sách, pháp luật, đưa ra các quyết sách quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương.

Nhằm tăng cường hiệu lực, nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát, trong quy định của dự thảo Luật có nhiều Điều, khoản về theo dõi, xử lý "hậu giám sát" khẳng định nghị quyết, kết luận, kiến nghị về giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và HĐND có giá trị pháp lý bắt buộc phải thực hiện (khoản 6 Điều 3, khoản 3 Điều 7…).

Ngoài ra, thực hiện chủ trương chung về chuyển đổi số quốc gia, dự thảo Luật đã thiết kế Điều 43 để quy định về ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số. Những quy định này nhằm thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong hoạt động giám sát, bảo đảm vừa tiết kiệm nguồn lực, nâng cao hiệu quả giám sát, vừa nâng cao tính công khai, minh bạch đối với hoạt động của cơ quan dân cử nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.

Cần quy định về thẩm quyền, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu

Hiện nay, trên cả nước đang vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, một trong những yếu tố bảo đảm mô hình này hoạt động thông suốt, hiệu quả là hành lang pháp lý đầy đủ. Vì không tổ chức cấp huyện nên chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp tỉnh, cấp xã có nhiều thay đổi so với trước đây và hoạt động giám sát cũng phải thay đổi từ thẩm quyền, trách nhiệm của HĐND các cấp đến phạm vi, đối tượng chịu sự giám sát. Dự thảo Luật đã dành toàn bộ Chương III gồm 11 Điều (từ Điều 27 đến Điều 38) để quy định về nội dung này.

Dự thảo Luật cũng bổ sung các quy định về thẩm quyền của Thường trực HĐND, đại biểu HĐND, Tổ đại biểu HĐND trong việc xem xét kết quả giám sát (Điều 32, Điều 38). Liên quan đến thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND hiện còn có ý kiến khác nhau: Một là, không quy định thẩm quyền, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND vì cho rằng không hiệu quả; hoặc chỉ quy định cho Tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh. Hai là, vẫn quy định thẩm quyền, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND.

Tuy nhiên, xét về căn cứ pháp lý, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 quy định về cơ cấu tổ chức của HĐND gồm Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND (khoản 1 Điều 29). Trong dự thảo Luật lần này nếu không quy định thẩm quyền giám sát đối với Tổ đại biểu HĐND là không bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật.

Về mặt thực tiễn, nếu không quy định thẩm quyền, hoạt động của Tổ đại biểu HĐND thì trong một số trường hợp nhất định khi gặp vấn đề giám sát cần sự phối hợp chuyên môn của nhiều đại biểu sẽ gặp khó khăn khi triển khai thực hiện; hoặc ở nhiều địa phương cấp xã có chung một vấn đề giám sát thì khi đó cần vai trò của Tổ đại biểu tập hợp, điều phối hoạt động giám sát chung của các đại biểu trong Tổ để đạt mục đích giám sát đề ra.

Như vậy, có thể thấy rõ cả căn cứ pháp lý lẫn thực tiễn đều cần có quy định về thẩm quyền, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND. Tuy nhiên, Thường trực HĐND phải đóng vai trò định hướng, điều hòa hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND và quy định như trong dự thảo Luật là phù hợp (Điều 37).

Nguyễn Ngọc Thái

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/du-thao-luat-hoat-dong-giam-sat-cua-quoc-hoi-va-hoi-dong-nhan-dan-sua-doi-nhieu-quy-dinh-duoc-sua-doi-bo-sung-phu-hop-thuc-tien-10390929.html