Đừng lầm tưởng, Fed hoàn toàn không cần hạ lãi suất
Nếu Chủ tịch Fed Jerome Powell và các đồng nghiệp hạ lãi suất như kỳ vọng của Tổng thống Donald Trump và thị trường tài chính, thảm họa hơn 50 năm trước có thể tái diễn.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell. (Ảnh: MarketWatch/iStock, Getty Images).
Lạm phát thường yêu cầu Fed phải giữ nguyên hoặc thậm chí tăng lãi suất, nhưng bức tranh thị trường lao động suy yếu có thể khiến ngân hàng trung ương Mỹ phải cắt giảm lãi suất để tránh đẩy nền kinh tế vào suy thoái.
Hiện tại, cả Tổng thống Donald Trump lẫn thị trường tài chính đều kỳ vọng Fed sẽ giảm lãi suất vào tháng 9. Xác suất cho đợt giảm 25 điểm cơ bản hiện vào khoảng 73%, theo công cụ FedWatch của CME Group tính đến chiều ngày 22/8.
Không ít quan chức Fed, bao gồm hai thống đốc Christopher Waller và Michelle Bowman, cũng ủng hộ phương án giảm lãi suất. Thậm chí, bà Bowman còn táo bạo hơn khi đề nghị giảm ba lần trong những tháng cuối năm.
Tuy nhiên, không phải cứ muốn là sẽ được toại nguyện. Xét trong bối cảnh vĩ mô hiện tại - với một thị trường lao động bắt đầu lộ dấu hiệu suy yếu nhưng lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, Fed cần án binh bất động. Hay nói cách khác, các quan chức không cần tăng cũng chẳng cần giảm lãi suất.
Thị trường lao động bắt đầu rạn nứt
Như đề cập ở trên, lý do chính khiến Fed muốn hạ lãi suất là vì họ lo ngại thị trường lao động sắp lao dốc. Sau nhiều tháng bất ổn khó lường, báo cáo việc làm tháng 7 đã cho thấy rõ ràng rằng nền kinh tế Mỹ đang bắt đầu có dấu hiệu chậm lại.
Số liệu từ Cục Thống kê Lao động (BLS) cho thấy các doanh nghiệp chỉ tạo thêm 73.000 việc làm trong tháng 7, thấp hơn hẳn ước tính 100.000 của các nhà kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp nhích tăng từ 4,1% lên 4,2%.
Đáng ngại hơn là các nhà thống kê đã điều chỉnh giảm số liệu việc làm hai tháng trước đó tổng cộng 258.000 - một con số gây sốc đến mức ông Trump nổi giận và ngay lập tức sa thải người đứng đầu BLS. Sau điều chỉnh, nước Mỹ chỉ tạo thêm 19.000 việc làm trong tháng 5 và 14.000 việc làm trong tháng 6.

Các ngành chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ xã hội vẫn dẫn đầu mức tăng trưởng việc làm. Tuy nhiên, nhà đầu tư cần lưu ý rằng những ngành này có xu hướng hoạt động tốt bất luận nền kinh tế đang diễn biến như thế nào.
Trong khi đó, các đợt sa thải nhân viên của chính phủ liên bang vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường lao động, khiến lĩnh vực này mất 12.000 việc làm trong tháng 7. So với mức tăng trưởng 1,3% trong năm 2024, tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực này đã giảm tốc khoảng 5,5% trong năm nay.
Tăng trưởng việc làm cũng chậm lại đáng kể trong các ngành phụ thuộc nhiều vào người nhập cư, chẳng hạn như xây dựng. Chính sách kiểm soát người nhập cư của Nhà Trắng đang thu hẹp số lao động nước ngoài tại Mỹ.
Dựa trên khảo sát hàng tháng của Cục Thống kê Dân số, BLS ước tính lực lượng lao động sinh ra ở nước ngoài tại Mỹ đã giảm 1,65 triệu người kể từ tháng 3, trong khi lực lượng lao động sinh ra tại Mỹ tăng 2,65 triệu người.
Trong một cuộc phỏng vấn với Wall Street Journal, ônng Jed Kolko, nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, đánh giá: “Thị trường lao động hiện nay có vẻ đã yếu đi đáng kể so với trước khi báo cáo việc làm tháng 7 được công bố”.

Một báo cáo khác của BLS cho thấy Mỹ có tổng cộng 7,2 triệu người thất nghiệp trong tháng 7. Dù chỉ nhỉnh hơn một chút so với mức 7,1 triệu người vào cùng kỳ năm trước, con số này lại tăng so với mức 6,8 triệu người vào tháng 1, báo hiệu một sự đảo chiều đang diễn ra.
Trong đó, số người thất nghiệp từ 27 tuần trở lên đã tăng từ mức 1,65 triệu hồi tháng 6 lên 1,83 triệu người. Tình trạng này cho thấy tỷ lệ sa thải đang duy trì ở mức thấp, nhưng các công ty đang ngần ngại tuyển dụng, khiến những người không có việc làm càng khó tìm việc làm hơn.
Thêm vào đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đã giảm trở lại vào tháng 7 - đánh dấu mức thấp nhất kể từ tháng 11/2022. Không tính giai đoạn đại dịch COVID-19, đây là mức thấp nhất kể từ những năm 1970.
Trong một lưu ý, chuyên gia kinh tế Sarah House của Wells Fargo cảnh báo: “Chúng tôi nghĩ mọi thứ sẽ tiếp tục suy yếu từ đây. Quả thực nền kinh tế vẫn đang tạo thêm việc làm, nhưng không phải ai cũng có thể làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe hoặc giáo dục”.

Lạm phát trên đà tăng trở lại
Trong khi bức tranh thị trường lao động xấu đi, tác động từ chính sách thuế quan của ông Trump đang bắt đầu thấm vào lạm phát.
Dữ liệu công bố vào đầu tháng này cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 đã tăng 2,7% so với cùng kỳ và đang tiếp tục đà tăng từ những tháng trước. Con số này rõ ràng cao hơn mức mục tiêu 2% mà các quan chức Fed thiết lập.
Khi không tính giá thực phẩm và năng lượng dễ biến động, CPI lõi tăng 3,1% so với cùng kỳ, đánh dấu mức cao nhất kể từ tháng 2, thời điểm trước khi ông chủ Nhà Trắng công bố thuế quan đối ứng với hàng trăm đối tác thương mại của Mỹ.
Báo cáo chỉ số giá sản xuất (PPI) sau đó càng gây lo ngại hơn, khi hầu hết các thước đo giá bán buôn đều tăng mạnh hơn dự kiến trong tháng 7, chứng tỏ lạm phát vẫn là mối đe dọa đối với nền kinh tế.
Thước đo lạm phát ưa thích của Fed - chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCEPI) - cũng không báo hiệu tin mừng khi số liệu tiếp tục nóng lên và ngày càng rời xa mức mục tiêu mà Fed đề ra.
Cho đến nay, chính quyền ông Trump đã áp thuế đối ứng tối thiểu 15% đối với hầu hết hàng hóa nhập khẩu; 25% với ô tô và phụ tùng ô tô; 50% với nhôm, thép và đồng. Hàng chục đối tác thương mại khác như Trung Quốc và Việt Nam phải chịu mức thuế đối ứng cao hơn, dao động từ 19% đến 41%.
Với một hệ thống thuế quan rộng lớn như trên, đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi thuế quan len lỏi qua các cảng biển, hợp đồng mua bán, dây chuyền sản xuất đến hóa đơn của người tiêu dùng Mỹ.

Gần đây, gã khổng lồ ngân hàng Goldman Sachs đã giúp người tiêu dùng tính toán thử xem bao giờ cơn bão giá sẽ đổ ập xuống đầu họ.
Goldman Sachs cho biết tính đến tháng 6, các doanh nghiệp Mỹ đang gánh khoảng 64% chi phí thuế quan, trong khi người tiêu dùng chịu 22% và phần còn lại của các nhà xuất khẩu nước ngoài.
Song, họ cảnh báo phép toán đó không bền vững. Vào cuối năm nay, khoảng 67% chi phí thuế quan sẽ được chuyển sang người tiêu dùng, kéo lạm phát lõi tính theo thước đo ưa thích của Fed lên mức 3,2%.
Không phải ngẫu nhiên mà đến cuối năm người tiêu dùng mới nếm trải thiệt hại của thuế quan. Trước khi ông Trump áp đặt thuế quan, phần lớn doanh nghiệp Mỹ đã tích trữ trước một lượng lớn hàng tồn kho để đề phòng cú sốc giá.
Sự chậm trễ trong thủ tục hải quan và các miễn trừ thuế quan là hai lý do khác khiến chi phí nhập khẩu chưa ảnh hưởng đến các kệ hàng. Chưa kể, nhiều doanh nghiệp vẫn đang cầm cự trước khi phải đẩy phần chi phí tăng thêm cho người tiêu dùng.
Một khi lượng hàng tồn kho vơi đi, các miễn trừ thuế quan thu hẹp và các công ty ngừng hấp thụ tác động của thuế quan, số liệu lạm phát sẽ bắt đầu thể hiện rõ hơn thiệt hại mà thuế quan gây ra.

Nhìn chung, rất nhiều chỉ báo kinh tế cho thấy lạm phát và thị trường lao động đang đi ngược hướng nhau, gợi nhắc đến kịch bản lạm phát đình trệ (lạm phát tăng nhưng thị trường lao động suy yếu, dẫn đến kinh tế giảm tốc nghiêm trọng).
Trong một môi trường như vậy, Fed không nên tập trung vào nhiệm vụ này mà bỏ qua nhiệm vụ kia. Cách tốt nhất là chờ đợi và quan sát cho đến khi nhìn thấy những tín hiệu rõ ràng hơn và dĩ nhiên không khuất phục trước áp lực từ Nhà Trắng. Nếu không, Fed có thể sẽ lặp lại sai lầm tương tự như cách đây hơn 50 năm.
Bài học từ cựu Chủ tịch Fed Arthur Burns
Arthur F. Burns được người đời sau biết đến là Chủ tịch Fed từng thất bại trong việc ngăn chặn lạm phát phi mã vào những năm 1970, là nguyên nhân dẫn đến cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất của nước Mỹ kể từ Đại Khủng hoảng.
Nếu có một điều mà Chủ tịch Fed đương nhiệm Jerome Powell không muốn xảy ra, thì đó là ông không muốn trở thành một Burns thứ hai.
Burns từng là nhà kinh tế đáng kính trong chính quyền Tổng thống Dwight Eisenhower. Phó Tổng thống lúc bấy giờ là Richard Nixon đánh giá rất cao ông và sau khi giành được Nhà Trắng vào năm 1968, Nixon đã chọn Burns làm người lãnh đạo Fed.
Tổng thống Nixon nhấn mạnh Chủ tịch Fed là một phần trong chính quyền, chứ không phải một trung tâm quyền lực độc lập. Và vấn đề của chính quyền mới là một nền kinh tế yếu kém được thừa hưởng từ chính quyền tiền nhiệm. Điều này hoàn toàn không ổn với Nixon, người đang muốn giành một nhiệm kỳ khác.
“Tôi không muốn rời đi quá nhanh”, Nixon nói với Burns trong một cuộc trò chuyện được Nhà Trắng ghi lại vào ngày 10/10/1971. Vị tổng thống muốn tăng cung tiền và Burns đã liên tục báo cáo tiến triển cho “người sếp” của ông.
Burns đưa ra quyết định sai lầm vào mùa thu năm 1973. Trong bối cảnh nền kinh tế đang đình lạm, Ủy ban Ngân hàng Hạ viện muốn biết Fed đang làm gì.
Nhắc lại một câu nói mà ông đã sử dụng trong nhiều tuần trước đó, Burns chia sẻ vào ngày 12/9 rằng Fed “dự định sẽ theo đuổi chính sách tiền tệ hạn chế cho đến khi tăng trưởng cung tiền và tín dụng cùng thu hẹp”.
Vào thời đó, lạm phát chủ yếu được kiểm soát thông qua cung tiền thay vì lãi suất như ngày nay. Giảm cung tiền để kìm hãm lạm phát, tăng cung tiền để thúc đẩy tăng trưởng. Ban đầu, Burns chọn giảm cung tiền và chấp nhận nguy cơ suy thoái.

Tuy nhiên, dưới áp lực từ Nhà Trắng, ông lại thay đổi quan điểm. Vào ngày 10/10, cơ quan hoạch định chính sách của Fed đã bí mật bỏ phiếu tăng cung tiền. Đây là khởi đầu của một đợt nới lỏng tiền tệ khiến lạm phát nhảy vọt lên mức cao nhất trong thời bình. Giai đoạn này được lịch sử ghi lại là Đại Lạm phát.
Người Mỹ rơi vào cảnh khó khăn túng quẫn và bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giá cả đang tiếp tục tăng đều xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo.
“Những bà mẹ đang vật lộn với cuộc chiến ngân sách gia đình sẽ phải gánh chịu thêm cú sốc nữa khi con cái họ trở lại trường học. Giá bữa trưa tại trường đang tăng từ 5 đến 10 xu trên toàn quốc”, tờ Evening Sun đưa tin vào cuối năm 1973.
May mắn thay, Đại Lạm phát cuối cùng cũng chấm dứt dưới bàn tay lèo lái của Chủ tịch Fed Paul Volcker - người kế nhiệm Burns, dù nền kinh tế Mỹ đã phải trả một cái giá thật sự đắt trong thập niên 1980.
Đối với nhà kinh tế học Ben Bernanke, Chủ tịch Fed giai đoạn 2006 - 2014, Burns đã vượt quá giới hạn. Ông hành động “giống như một thành viên của chính quyền - vạch ra chiến lược chính trị trong các cuộc họp ở Nhà Trắng và thảo luận về những sáng kiến chính sách không liên quan đến trách nhiệm của Fed - hơn là người đứng đầu một ngân hàng trung ương độc lập”, Bernanke nhận xét.
Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/dung-lam-tuong-fed-hoan-toan-khong-can-ha-lai-suat.html