Già hóa dân số nhanh: Thách thức an sinh và 'lời giải' từ Nghị quyết 72-NQ/TW
Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ thuộc nhóm nhanh nhất thế giới, trong khi nền kinh tế và hệ thống an sinh xã hội vẫn trong quá trình hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị được kỳ vọng sẽ mở ra cách tiếp cận mới: chuyển từ 'sống lâu' sang 'sống khỏe', từ ứng phó thụ động sang quản trị chủ động già hóa dân số.
Già hóa dân số đến nhanh chưa từng có
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), một quốc gia được coi là bước vào giai đoạn “bắt đầu già” khi tỷ lệ người cao tuổi chiếm từ 10% dân số và chính thức trở thành xã hội “già” khi con số này đạt 20%. Với quy định người cao tuổi từ đủ 60 tuổi trở lên, Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ già hóa nhanh hàng đầu châu Á và thế giới.
Hơn 60 năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự suy giảm mạnh mẽ của tốc độ tăng dân số. Từ mức rất cao 3,9% năm 1960, tỷ lệ tăng dân số đã giảm xuống 1,14% năm 2019 và chỉ còn khoảng 0,95% vào năm 2021. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, nếu duy trì mức sinh trung bình, đến năm 2069 tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam sẽ về 0; còn trong kịch bản mức sinh thấp, chỉ khoảng hơn 30 năm nữa, Việt Nam có thể bước vào tình trạng tăng trưởng dân số âm.
Cùng với đó là sự gia tăng nhanh chóng của nhóm người cao tuổi. Ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế) cho biết, nếu như năm 2009 cứ khoảng 3 trẻ em dưới 15 tuổi mới có 1 người từ 60 tuổi trở lên, thì đến năm 2019, tỷ lệ này đã rút ngắn còn 2 trẻ em/1 người cao tuổi. Năm 2019, người từ 60 tuổi trở lên chiếm gần 12% dân số và dự báo sẽ vượt mốc 25% vào năm 2050. Đặc biệt, năm 2036, Việt Nam sẽ chính thức bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”.
Điều đáng lo ngại là tốc độ chuyển đổi này diễn ra quá nhanh. Trong khi nhiều quốc gia phát triển phải mất từ 50 đến 70 năm, thậm chí hàng thế kỷ, để chuyển từ già hóa sang dân số già, thì ở Việt Nam, quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng hơn 20 năm. “Đây là thách thức rất lớn, bởi nền kinh tế của chúng ta vẫn đang trong giai đoạn phát triển, chưa kịp chuẩn bị đầy đủ các mạng lưới an sinh xã hội phù hợp cho một xã hội nhiều người cao tuổi”, ông Lê Thanh Dũng nhấn mạnh.

Viện dưỡng lão thường xuyên tổ chức sự kiện giải trí, xã hội, sinh nhật,… để đem đến niềm vui cho các cụ. (Nguồn: Viện Dưỡng lão Bình Mỹ)
Theo GS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội (Đại học Kinh tế Quốc dân), xã hội ít trẻ em, nhiều người già sẽ kéo theo sự suy giảm lực lượng lao động, trong khi nhu cầu chăm sóc và chi tiêu an sinh ngày càng lớn. “Xã hội sẽ rơi vào tình trạng thu ít mà chi nhiều”, ông nhận định.
Thực tế hiện nay cho thấy chất lượng sống của người cao tuổi Việt Nam còn thấp. Phần lớn người cao tuổi sống ở nông thôn, không có thu nhập ổn định, tuổi thọ cao nhưng đi kèm với nhiều bệnh tật mãn tính. Chỉ khoảng 20% người cao tuổi có lương hưu; nếu tính cả trợ cấp xã hội, tỷ lệ này cũng chưa đến 50%. Khi mất sức lao động, đa số người cao tuổi vẫn phải phụ thuộc vào con cái, trong bối cảnh mô hình gia đình ngày càng thu nhỏ và con cái phải đối mặt với áp lực kinh tế lớn.
PGS.TS Nguyễn Trung Anh, Giám đốc Bệnh viện Lão khoa Trung ương cho biết, mỗi người cao tuổi ở Việt Nam trung bình phải sống khoảng 14 năm cuối đời với nhiều bệnh tật phối hợp. Người trên 60 tuổi thường mắc 3 - 4 bệnh mãn tính; người trên 80 tuổi có thể mắc tới 7 bệnh, phổ biến là bệnh tim mạch, chuyển hóa, hô hấp, sa sút trí tuệ. Trong khi đó, tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt chỉ khoảng 64 tuổi, thấp hơn nhiều so với tuổi thọ trung bình.
Già hóa dân số nhanh đang tạo sức ép lớn lên hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT). Chi ngân sách cho an sinh xã hội hiện đã chiếm gần 30% tổng chi thường xuyên của Nhà nước và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong bối cảnh dân số già hóa. Bên cạnh đó, mô hình gia đình ít con khiến gánh nặng chăm sóc người cao tuổi dồn lên nhóm lao động trung niên, cả về tài chính lẫn tinh thần, trong khi hệ thống chăm sóc dài hạn và dưỡng lão vẫn còn thiếu và yếu.
Một khảo sát của Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2022 cho thấy, khoảng 67% người trong độ tuổi 30 - 44 mong muốn độc lập khi về già, không phụ thuộc vào con cái. Tuy nhiên, chỉ chưa đến 30% trong số họ thực sự có kế hoạch chuẩn bị cho tuổi già. Đáng chú ý, nhiều người cho rằng chỉ nên bắt đầu chuẩn bị tài chính từ sau 40 hoặc 50 tuổi, một mốc được các chuyên gia đánh giá là quá muộn.
Thực tế, nhiều quốc gia đã chuyển thách thức thành cơ hội thông qua mô hình “già hóa tích cực” và phát triển “nền kinh tế bạc”. Trong khi, người cao tuổi Việt Nam ngày càng năng động hơn, tham gia lao động, hoạt động xã hội, khuyến học, tư vấn chính sách và các phong trào cộng đồng. Đây là nguồn lực quý giá nếu được khai thác và hỗ trợ đúng cách.
Để chủ động ứng phó với “cơn bão” già hóa dân số, Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: cải cách mạnh hệ thống BHXH theo hướng bền vững; mở rộng mạng lưới chăm sóc y tế và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tiếp tục làm việc phù hợp với sức khỏe; đồng thời có chính sách hỗ trợ thực chất cho người trẻ về nhà ở, việc làm, thu nhập để khuyến khích kết hôn và sinh con.
Tư duy mới trong chính sách an sinh
Ngày 9/9/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 72-NQ/TW “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân”. Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh, Nghị quyết số 72 được đánh giá là quyết sách chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn, thể hiện sự quan tâm sâu sắc, toàn diện và nhân văn của Đảng, Nhà nước đối với người cao tuổi, nhóm dân số ngày càng gia tăng cả về quy mô và nhu cầu an sinh.
Nghị quyết 72 khẳng định quan điểm xuyên suốt: sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả quốc gia; người dân là trung tâm, là chủ thể; trọng tâm của hệ thống y tế phải chuyển mạnh từ “khám, chữa bệnh” sang “phòng bệnh”, quản lý sức khỏe suốt vòng đời. Đối với người cao tuổi, đây là bước chuyển căn bản, bởi chính sách không chỉ hướng đến kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao số năm sống khỏe mạnh, giảm gánh nặng bệnh tật và chi phí y tế.

Người dân xã Tiến Thắng (Hà Nội) đến khám bệnh miễn phí với nhiều chuyên khoa, tầm soát các bệnh lý và sàng lọc sớm bệnh tiểu đường, rối loạn mỡ máu... (Nguồn: TTXVN)
Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, tuổi thọ trung bình của người Việt đạt 75,5 tuổi, số năm sống khỏe mạnh tối thiểu 68 năm; đến năm 2045, tuổi thọ trung bình vượt 80 tuổi, trong đó số năm sống khỏe mạnh trên 71 năm. Đây là định hướng mang ý nghĩa an sinh sâu sắc, đặc biệt đối với người cao tuổi.
Hiện Việt Nam có khoảng 16 - 17 triệu người cao tuổi, phần lớn sinh sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ người cao tuổi có thẻ BHYT khá cao, song khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế chuyên sâu, chăm sóc dài hạn, chăm sóc tại nhà và tại cộng đồng còn hạn chế. Hệ thống bệnh viện lão khoa, nhân lực y tế chuyên ngành, dịch vụ chăm sóc bán trú hoặc chăm sóc ban ngày vẫn chưa phát triển tương xứng với tốc độ già hóa dân số. Chính vì vậy, Nghị quyết 72 được xem là “điểm tựa chính sách” quan trọng để từng bước khắc phục những bất cập này.
Một trong những nội dung nổi bật của Nghị quyết 72 là khám sức khỏe định kỳ cho toàn dân, triển khai từ năm 2026, ít nhất 1 lần/năm, gắn với sàng lọc phát hiện sớm bệnh tật. Với người cao tuổi, đây là cơ hội được quản lý sức khỏe chủ động, phát hiện sớm bệnh mạn tính, điều trị kịp thời, hạn chế biến chứng và giảm chi phí điều trị muộn.
Cùng với đó là xây dựng hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân, quản lý sức khỏe trọn đời. Đối với người cao tuổi, hồ sơ điện tử giúp bác sĩ nắm rõ tiền sử bệnh, thuốc đang sử dụng, giảm thủ tục, hạn chế sai sót y khoa, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận khám, chữa bệnh từ xa, đặc biệt với người già neo đơn hoặc khó đi lại.
Một điểm nhấn an sinh rất quan trọng là lộ trình miễn viện phí cơ bản trong phạm vi quyền lợi BHYT đến năm 2030. Chính sách này có ý nghĩa đặc biệt với người cao tuổi, nhóm sử dụng dịch vụ y tế thường xuyên, góp phần giảm gánh nặng tài chính, bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe và tạo tâm lý an tâm khi về già.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh củng cố y tế cơ sở và chăm sóc tại cộng đồng, bảo đảm trạm y tế xã đủ nhân lực, thuốc men, trang thiết bị. Đây là giải pháp then chốt để người cao tuổi, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, được chăm sóc sức khỏe gần nơi cư trú, giảm tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, đúng với tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Một định hướng rất tiến bộ của Nghị quyết 72 là chuyển mạnh sang dự phòng, phát hiện sớm và quản lý bệnh mạn tính tại cộng đồng, kết hợp chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần. Đây là chính sách sát với nhu cầu thực tế của người cao tuổi, nhóm không chỉ cần điều trị bệnh mà còn cần được hỗ trợ về tâm lý, giao tiếp xã hội và phòng, chống cô đơn.
Tinh thần của Nghị quyết 72 cho thấy, bảo đảm an sinh cho người cao tuổi không chỉ là nhiệm vụ của ngành Y tế mà đòi hỏi sự phối hợp liên ngành: y tế, bảo hiểm, tài chính, xây dựng, giao thông, văn hóa, khoa học - công nghệ. Từ phát triển nhân lực lão khoa, điều dưỡng, chăm sóc dài hạn; ứng dụng chuyển đổi số; đến xây dựng môi trường sống, hạ tầng và giao thông thân thiện với người cao tuổi, tất cả đều là những cấu phần không thể thiếu.
Già hóa dân số vì thế không chỉ là “bài toán” nhân khẩu học, mà là phép thử về tầm nhìn, bản lĩnh và năng lực quản trị của Nhà nước. Nghị quyết 72-NQ/TW không chỉ là bước đi chiến lược xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng và bền vững, mà còn là minh chứng rõ nét cho chính sách an sinh nhân văn, lấy con người làm trung tâm, để người cao tuổi Việt Nam được sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn và hạnh phúc hơn trong kỷ nguyên mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu xây dựng các mô hình chăm sóc, “chống cô đơn cho người già”, như trung tâm chăm sóc ban ngày, mô hình “sáng đón - chiều trả”, nơi người cao tuổi được giao lưu, vận động, sinh hoạt cùng bạn bè đồng trang lứa. Đây là hướng tiếp cận nhân văn, phù hợp với xu thế già hóa tích cực trên thế giới, đồng thời giảm áp lực chăm sóc cho gia đình và xã hội.











