Giao dịch trầm lắng, nguồn cung cao gây sức ép gạo Việt
Nguồn cung cao khiến cho giá xuất khẩu gạo Việt Nam tiếp tục giảm nhẹ, trong khi giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã nhích lên nhẹ nhờ nhu cầu cải thiện.

Nông dân thu hoạch lúa. (Ảnh: Công Mạo/TTXVN)
Hoạt động giao dịch trầm lắng và nguồn cung cao vẫn là sức ép với gạo Việt Nam tuần qua. Giá xuất khẩu gạo Việt Nam tiếp tục giảm nhẹ, trong khi giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã nhích lên nhẹ nhờ nhu cầu cải thiện.
Không chỉ tại Việt Nam, trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu tại hầu hết các quốc gia xuất khẩu hàng đầu châu Á đều ghi nhận xu hướng giảm. Nguyên nhân bởi nhu cầu liên tục suy yếu trong khi nguồn cung ngày càng dồi dào.
Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tuần qua, giá lúa khô loại IR 50404 ở Hậu Giang là 7.900 đồng/kg, Vĩnh Long duy trì ở mức 6.600 đồng/kg; Tiền Giang 6.300 đồng/kg; Đồng Tháp là 6.600 đồng/kg...Với OM 18, tại Cần Thơ là 7.300 đồng/kg, giảm 300 đồng/kg; Tiền Giang là 6.700 đồng/kg, Hậu Giang là 8.000 đồng/kg...
Với lúa Jasmine, tại Cần Thơ là 8.400 đồng/kg; Tiền Giang là 7.000 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg...
Với lúa OM 5451, tại Hậu Giang là 8.000 đồng/kg; Cần Thơ là 6.800 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; Trà Vinh là 7.400 đồng/kg.Lúa Đài thơm 8 ở Sóc Trăng là 7.700 đồng/kg; ST 25 tại Cần Thơ vẫn là 9.500 đồng/kg...
Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, giá một số loại lúa tươi được thương lái thu mua như: lúa IR 50404 ở mức từ 5.300-5.500 đồng/kg; lúa OM 380 từ 5.300-5.600 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg; giá lúa OM 5451 dao động mốc 5.700-6.000 đồng/kg...
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 14.000-15.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000-22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 16.000-18.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 17.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg...
Giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.050-8.150 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500-9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.850-7.900 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800-9.000 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 7.250-10.000 đồng/kg. Giá cám khô ở mức 9.000-10.000 đồng/kg.

Bốc xếp gạo xuất khẩu. (Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN)
Về xuất khẩu, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 387 USD/tấn, giảm nhẹ so với mức 388 USD/tấn một tuần trước. Hoạt động mua hàng trầm lắng và nguồn cung cao hơn cũng đã gây áp lực lên giá gạo của Thái Lan.
Trong khi giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ trong tuần này đã rời khỏi mức thấp nhất trong hai năm nhờ nhu cầu cải thiện. Loại gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 380-386 USD/tấn, tăng so với mức từ 378-384 USD/tấn của tuần trước. Gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ được định giá ở mức 373-377 USD/tấn trong tuần này.
Ông Himanshu Agrawal, Giám đốc điều hành của công ty xuất khẩu gạo Satyam Balajee, cho biết đồng rupee yếu đang hỗ trợ phần nào cho gạo Ấn Độ. Ông nhận thấy nhu cầu gạo đang có dấu hiệu phục hồi.
Tính đến ngày 1/6, trữ lượng gạo của Chính phủ Ấn Độ, bao gồm cả lúa chưa xay xát, đạt mức kỷ lục 59,5 triệu tấn, vượt xa mục tiêu 13,5 triệu tấn của chính phủ cho ngày 1/7.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng giảm từ mức 398 USD/tấn hồi tuần trước xuống còn 397 USD/tấn, do đồng baht mạnh lên và nhu cầu yếu.
Một nhà giao dịch tại Bangkok bày tỏ sự lo ngại sâu sắc cho nông dân, khi nguồn cung đang rất dồi dào và vụ mùa mới dự kiến sẽ cho năng suất tốt nhờ mực nước thuận lợi.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá lúa mỳ giao kỳ hạn trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) phiên 18/6 đã tăng vọt hơn 4%, khi những lo ngại về thời tiết ở một số khu vực của Mỹ và châu Âu cùng các dấu hiệu về nhu cầu mới trên thế giới đã thúc đẩy hoạt động mua vào.
Giá ngô và đậu tương giao kỳ hạn cũng theo đà tăng trước kỳ nghỉ lễ tại Mỹ vào ngày 19/6.
Cụ thể, giá lúa mỳ giao tháng 7/2025 tăng 25 xu (tương đương 4,6%) lên mức 5,74 USD/bushel, sau khi chạm mức cao nhất của hợp đồng này kể từ ngày 24/3 là 5,75 USD/bushel. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 75 xu lên 10,74 USD/bushel và giá ngô kỳ hạn tháng 7 chốt phiên tăng 2 xu lên 4,33 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). Lúa mì ghi nhận mức tăng giá lớn nhất.
Ông Terry Linn, nhà phân tích của công ty môi giới mua bán hàng hóa Linn & Associates tại Chicago (Mỹ), nhận định rằng bất kỳ ai đã bán khống lúa mỳ Chicago trong vài tháng qua đều đang thua lỗ. Do đó, hoạt động mua bù bán khống là yếu tố chính thúc đẩy đà tăng của loại hàng hóa này.
Các nhà giao dịch châu Âu cũng cho hay Algeria đã đặt mua hơn nửa triệu tấn lúa mì trong một phiên đấu thầu tuần này. Ngoài ra, vụ thu hoạch lúa mỳ mùa Đông của Mỹ đang bắt đầu chậm do điều kiện ẩm ướt, trong khi một số khu vực của Nga và Liên minh châu Âu (EU) lại bị khô hạn.
Các nhà giao dịch đang chờ đợi thêm định hướng thị trường từ báo cáo doanh số xuất khẩu hàng tuần của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) được công bố muộn hơn một ngày so với thường lệ do kỳ nghỉ lễ vào ngày 19/6.
Thị trường càphê thế giới cho thấy, trên sàn London, giá càphê Robusta kỳ hạn tháng 7/2025 giảm mạnh 147 USD/tấn xuống còn 3.887 USD/tấn. Các kỳ hạn sau đó như tháng 9, 11 và 1/2026 cũng đồng loạt mất từ 142-146 USD/tấn, đưa mặt bằng giá xuống vùng thấp nhất 6 tuần qua.

Giá càphê tại các tỉnh Tây Nguyên giảm. (Ảnh: Hoài Thu/TTXVN)
Tương tự trên sàn New York, giá càphê Arabica giảm mạnh phiên thứ sáu liên tiếp. Giá càphê Arabica kỳ hạn tháng 9/2025 mất thêm 7,25 xu/lb xuống 315.05 xu/lb, trong khi các kỳ hạn xa hơn như tháng 12/2025 và 3/2026 cũng mất từ 7,85-8,15 xu/lb, lùi về vùng 305-310 xu/lb (1 lb=0,453 kg).
Trong khi đó tại thị trường trong nước, vào sáng 21/6, giá càphê tại các tỉnh Tây Nguyên giảm thêm 5.000 đồng/kg so với hôm qua, đưa mặt bằng chung về mức 95.500-96.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá tại Đắk Lắk, Gia Lai và Đắk Nông đồng loạt ở mức 96.000 đồng/kg, còn Lâm Đồng duy trì mức thấp nhất là 95.500 đồng/kg.
Tính chung cả tuần, giá càphê nội địa đã mất hơn 17.000 đồng/kg, tương đương gần 15% giá trị. Đây là tuần sụt giảm mạnh nhất kể từ đầu năm, khi thị trường chịu ảnh hưởng kép từ xu hướng bán tháo trên sàn quốc tế và lực chốt hàng tăng mạnh trong nước.
Theo giới phân tích, thị trường cà phê đang chịu tác động từ lo ngại nhu cầu yếu dần trong nửa cuối năm, cùng với đó là tâm lý chốt lời khi giá đã trải qua giai đoạn tăng nóng hồi tháng 4-5/2025.
Một số tín hiệu về việc nguồn cung từ Brazil và Indonesia đang phục hồi cũng khiến áp lực bán ra ngày càng lớn.
Nếu không có thông tin hỗ trợ mạnh trong ngắn hạn, giá cà phê được dự báo sẽ tiếp tục chịu áp lực điều chỉnh và dao động trong biên độ thấp.
Các nhà xuất khẩu và doanh nghiệp trong nước được khuyến nghị thận trọng trong việc bắt đáy và nên ưu tiên quản lý rủi ro tỷ giá, nhất là khi đồng USD có dấu hiệu tăng trở lại./.