Giữ bản sắc dân tộc Dao qua nghi lễ và dân ca
Trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, người Dao có hệ thống nghi lễ và dân ca nghi lễ phong phú, vừa mang tính thiêng vừa phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần của cộng đồng. TS. ĐẶNG THỊ OANH, Trưởng khoa Kinh tế Du lịch, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai chia sẻ về việc phát huy vai trò của cộng đồng nhằm bảo tồn di sản này.
- Tại Lễ trao giải thưởng Văn nghệ dân gian năm 2025, 3 tập "Nghi lễ và dân ca nghi lễ của người Dao ở Việt Nam"(TS. Trần Hữu Sơn, TS. Đặng Thị Oanh, và các tác giả) cùng 2 công trình khác đã được trao giải Nhì B (không có giải Nhất). Xin bà giới thiệu về công trình nghiên cứu này?
- Công trình của chúng tôi được thực hiện trong 2 năm, gồm 3 phần cơ bản. Phần thứ nhất giới thiệu, phân tích và đánh giá để chỉ ra những giá trị tiêu biểu, đặc trưng trong nghi lễ và dân ca nghi lễ của người Dao ở Việt Nam: từ giá trị văn học nghệ thuật, tôn giáo, lịch sử cho đến những giá trị nhân bản và đạo đức. Người Dao có hệ thống nghi lễ phong phú, mang tính linh thiêng và phản ánh đời sống tinh thần sâu sắc.
Phần thứ hai, chúng tôi sưu tầm dân ca của các nghi lễ. Đây là phần đồ sộ vì người Dao có nhiều ngành khác nhau, bên cạnh nét chung, mỗi ngành lại có những nét khác biệt, dị bản riêng. Có những chỗ khác biệt quá lớn, chúng tôi ghi nhận cả hai phiên bản để bảo đảm tính toàn diện. Những bài có sự khác biệt nhỏ thì chúng tôi chọn một bản, kèm theo chú thích để người đọc biết rằng ở vùng này, vùng kia có sự khác nhau.

TS. Đặng Thị Oanh (thứ 2, bên phải) và các tác giả nhận giải Nhì B Giải thưởng Văn nghệ dân gian năm 2025
Phần thứ ba là ghi chép về người Dao bằng chữ Nôm Dao. Chúng tôi nhờ đội ngũ nghệ nhân Dao ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc. Công việc này diễn ra nhiều ngày và không mệt mỏi, với nhiều tranh luận giữa nghệ nhân của các ngành khác nhau như Dao tuyền, Dao đỏ… Có lúc chúng tôi phải mời thêm chuyên gia để đi đến thống nhất, nhưng sự thống nhất cũng chỉ là tương đối. Vì vậy, chúng tôi luôn chú thích về các dị bản để người đọc thấy được sự đa dạng của từng vùng, miền.
Đến nay, quay trở lại gặp các nghệ nhân người Dao, chúng tôi thấy các bác rất thỏa mãn, bởi vì bên cạnh cái chung thì những cái riêng đều được nói tới, mọi người đều thấy mình trong đó.
- Trong quá trình thực hiện công trình này, làm việc với cộng đồng, trải nghiệm nào khiến bà ấn tượng nhất?
- Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đến tận những bản làng xa xôi, nhiều nơi heo hút, đi trên những con đường dốc hiểm trở mà chỉ xe máy, với tay lái của các chàng trai người Dao mới có thể đi qua.
Ấn tượng nhất với tôi là khi vào bản làng quay phim, phỏng vấn, bà con rất phấn khởi. Họ cảm nhận rõ rằng di sản của mình có giá trị, được ghi nhận và tôn vinh. Sự phấn khởi ấy lan tỏa từ người già đến trẻ nhỏ, từ nghệ nhân đến thanh niên. Tôi nhớ có những lễ hội mà cả cộng đồng cùng tham gia, không chỉ người lớn, mà trẻ em cũng háo hức, thanh niên thì quyết tâm hơn trong việc giữ gìn.
Ở đó, nghệ nhân chính là chủ nhân đích thực của di sản. Họ dành toàn bộ tâm huyết, tình yêu để giữ gìn. Tôi đã chứng kiến nhiều nghệ nhân vừa biểu diễn vừa giảng giải cho lớp trẻ, khiến các em nhận ra đây là một phần máu thịt của dân tộc mình. Khi nghệ nhân phấn khởi, họ sẽ lan tỏa tinh thần ấy đến cả cộng đồng, tạo nên sức mạnh bảo tồn bền vững. Tôi cho rằng, thành công nhất chính là khơi dậy trong Nhân dân tinh thần, ý thức bảo tồn, họ nhận thức được giá trị của di sản trong thời đại hiện nay.
Tất nhiên, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh nhiều nơi cộng đồng đã nhận thức được giá trị di sản văn hóa và bảo tồn rất tốt, thì cũng có một số nơi, các nghi lễ chỉ còn là hình thức.
- Luật Di sản văn hóa đã có những quy định nêu cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Từ thực tế nghiên cứu, bà có những khuyến nghị gì để công tác bảo tồn di sản nghi lễ và dân ca nghi lễ của người Dao hiệu quả hơn?
- Tôi cho rằng, những chính sách của Đảng và Nhà nước thời gian qua là rất hữu ích, thực sự là nguồn động viên lớn với đồng bào. Nhưng thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa các chính sách đặc thù với đồng bào, đặc biệt là các nghệ nhân cần được tôn vinh và hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần để họ tiếp tục công việc bảo tồn, truyền dạy di sản.
Về giáo dục trong trường phổ thông, cần đẩy mạnh dạy ngôn ngữ và bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu không, các em sẽ dễ dàng từ bỏ gốc rễ để chạy theo những giá trị xô bồ bên ngoài.
Bên cạnh đó, cần chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành những dự án thực tế. Chính quyền địa phương đóng vai trò điều phối, cùng nhà khoa học và nghệ nhân phục dựng các nghi thức truyền thống dựa trên sự góp ý, thống nhất của cộng đồng - những người đưa di sản thành một phần sống động của đời sống.
- Việc giữ không gian, môi trường sinh thái của di sản thì sao, thưa bà?
- Tôi thường ví di sản văn hóa như con cá, cần có môi trường nước để sống. Trong bảo tồn di sản, việc áp đặt lối sống cũ là không khả thi, thay vào đó cần bảo tồn không gian sinh hoạt gắn liền với rừng, nguồn nước và linh hồn kiến trúc nhà ở truyền thống, dù vật liệu có thể thay đổi. Đồng thời, cần duy trì các nghi lễ vòng đời cùng tiếng nói, trang phục bản địa để gắn kết cộng đồng.
Bảo tồn không phải là trình diễn hình thức trên sân khấu, mà phải để di sản sống tự nhiên trong hơi thở đời thường.
- Xin cảm ơn bà!
(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)












