Hiến pháp Việt Nam: Hành trình tư tưởng pháp quyền và kiến tạo phát triển

Chia sẻ tại Tọa đàm 'Quốc hội và hoạt động lập hiến, lập pháp - Từ Hiến pháp 1946 đến cải cách thể chế trong kỷ nguyên phát triển mới' do Báo Đại biểu Nhân dân thực hiện, các đại biểu đều cho rằng, hành trình lập hiến của Việt Nam là quá trình bền bỉ kế thừa và sáng tạo. Trên hành trình ấy, Hiến pháp luôn giữ vai trò nền tảng, mở đường cho Quốc hội kiến tạo khung khổ pháp lý và dẫn dắt phát triển đất nước.

Theo ThS. Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Nguyên Phó Trưởng Ban biên tập Hiến pháp, tham gia phục vụ xây dựng Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 để hiểu được giá trị của Hiến pháp 1946, phải hiểu được bối cảnh ra đời của bản Hiến pháp này.

Theo đó, bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành vào ngày 9/11/1946, trong bối cảnh Cách mạng tháng Tám thành công, sau đó, ngày 2/9 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội, ngay sau đó đã thành lập Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ kỳ họp đầu tiên đến ngày 9/11, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp.

ThS. Nguyễn Văn Phúc, Đại biểu Quốc hội Khóa XII, XIII; nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Nguyên Phó Trưởng Ban biên tập Hiến pháp 2013

ThS. Nguyễn Văn Phúc, Đại biểu Quốc hội Khóa XII, XIII; nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Nguyên Phó Trưởng Ban biên tập Hiến pháp 2013

“Tư tưởng lớn của Hiến pháp, những giá trị của Hiến pháp, trước hết thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cuộc cách mạng giành lại độc lập, tự do cho đất nước và thành lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy, tầm tư tưởng và giá trị vượt thời gian, vượt thời đại của bản Hiến pháp 1946 được khẳng định qua 80 năm hình thành, phát triển Quốc hội”, ThS. Nguyễn Văn Phúc chia sẻ.

Từ thực tiễn quá trình nghiên cứu, biên tập Hiến pháp, ThS. Nguyễn Văn Phúc nhận định Hiến pháp năm 1946 mang những giá trị lớn về tư tưởng vĩ đại của Hiến pháp, được thể hiện trên nhiều góc độ.

Thứ nhất, xác định Nhà nước chính thể của nước Việt Nam. Trong Hiến pháp 1946, chương đầu tiên chính thể của Nhà nước ta là Dân chủ Cộng hòa - một Nhà nước độc lập nhưng chính thể là Dân chủ cộng hòa. Trong nhiều giáo trình giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như về Nhà nước pháp quyền đã khẳng định Hiến pháp đã xác định, củng cố tính hợp hiến và hợp pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi có Hiến pháp càng củng cố và khẳng định nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước hợp hiến và hợp pháp.

Thứ hai, lời nói đầu của Hiến pháp 1946 khẳng định việc ban hành Hiến pháp theo các nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân, đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, phân biệt gái trai, giai cấp, tôn giáo.

“Tôi cho rằng, bản Hiến Pháp về mặt đối nội là “ngôi đền” thiêng liêng của Tổ quốc. Còn về mặt đối ngoại, Hiến pháp như một “cuốn hộ chiếu” của quốc gia khi hội nhập, hợp tác với các nước trên thế giới”, ThS. Nguyễn Văn Phúc khẳng định.

TS. Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp chia sẻ tại Tọa đàm

TS. Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp chia sẻ tại Tọa đàm

Đồng tình với chia sẻ của ThS. Nguyễn Văn Phúc, theo TS Nguyễn Đình Quyền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Hiến pháp 1946 đã trở thành một bản Hiến pháp mẫu mực với 5 tiêu chí của một Nhà nước pháp quyền. Theo đó, 5 tiêu chí bao gồm: tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân hay chủ quyền nhân dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thực hiện; tính tối cao của Hiến pháp và luật trong hoạt động của bộ máy nhà nước, xã hội và công dân; quyền lực nhà nước nhất thiết phải được phân chia; quyền lực phải được kiểm soát; tư pháp và độc lập.

Chia sẻ về vai trò của pháp luật và Quốc hội trong các giai đoạn Hiến pháp 1959 trong bối cảnh đất nước đứng trước yêu cầu kháng chiến, giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, PGS. TS Bùi Thị An, Đại biểu Quốc hội Khóa XIII cho rằng mỗi một bản Hiến pháp, mỗi một giai đoạn lập pháp Quốc hội đều đánh dấu một mốc lịch sử của đất nước, một bước ngoặt trong tiến trình phát triển.

PGS. TS Bùi Thị An, Đại biểu Quốc hội Khóa XIII chia sẻ tại Tọa đàm.

PGS. TS Bùi Thị An, Đại biểu Quốc hội Khóa XIII chia sẻ tại Tọa đàm.

Về kinh tế, thời điểm đó miền Bắc ở giai đoạn tiếp thu cái cũ, xây cái mới nên phải cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, từ nền sản xuất lạc hậu bắt đầu xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cùng lúc đó, miền Bắc đang là hậu phương chuẩn bị cho tiền tuyến.

Đứng trước một tình huống vô cùng mới, chưa có tiền lệ nên việc Quốc hội sửa đổi bản Hiến pháp là vô cùng quan trọng. Cùng với đó, năm 1959 đã lấy ý kiến của Nhân dân khoảng 4 tháng trước khi ban hành và chính bản Hiến pháp này đã định hình cho những chiến lược sau này.

Qua đó, có thể thấy Hiến pháp 1959 cực kỳ có giá trị, thể hiện được bước ngoặt lịch sử của đất nước về nhiều mặt. Thời điểm đó, Quốc hội đã chuẩn bị chu đáo và ban hành bản Hiến pháp 1959 để định hướng sự phát triển của đất nước và triển khai áp dụng trong một thời gian dài, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam thời điểm lúc bấy giờ, trong một tình hình phức tạp.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phát biểu tại Tọa đàm.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phát biểu tại Tọa đàm.

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, công cuộc Đổi mới của Việt Nam được xác định bắt đầu từ năm 1986, gắn với Đại hội VI của Đảng. Nếu tính theo mốc này, đến nay quá trình đổi mới đã trải qua khoảng 45 năm. Đây là mốc có ý nghĩa rất lớn, bởi lần đầu tiên chúng ta thẳng thắn thừa nhận những sai lầm trong việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp.

Chính cơ chế đó đã dẫn tới tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội và nền kinh tế, và cuối cùng là cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng như lịch sử đã ghi nhận.

Bước ngoặt mang tính thể chế được xác lập rõ ràng với Hiến pháp năm 1992. Đây là thời điểm Việt Nam thể chế hóa đầy đủ đường lối Đổi mới, chính thức xác lập mô hình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau này, mô hình đó được gọi là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngay sau Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã cụ thể hóa các quy định hiến định bằng việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh các thành phần kinh tế. Trong giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2005, pháp luật kinh tế Việt Nam được xây dựng theo hướng phân biệt theo từng thành phần kinh tế.

Cụ thể, Luật Đầu tư nước ngoài tiếp tục được sửa đổi; Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 được ban hành nhằm tạo sự cân bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; tiếp đó là Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995, Luật Hợp tác xã năm 1996; và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1999, có hiệu lực từ năm 2000, hợp nhất Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân.

“Trong khoảng một thập niên, xét trên phương diện thể chế kinh tế, Quốc hội đã xây dựng và ban hành được một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, từng bước hình thành khung khổ pháp lý cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, qua đó hoàn thiện mô hình nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, TS. Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh.

Việc bám sát đường lối Đổi mới năm 1986 và Hiến pháp 1992 trong hoạt động lập pháp đã giúp đặt nền móng khá vững chắc, tương đối toàn diện cho sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như hiện nay.

Đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội phát biểu tại Tọa đàm

Đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội phát biểu tại Tọa đàm

Từ góc độ của đại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương nhận định, Quốc hội đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy, hoạt động chuyên nghiệp, kịp thời đổi mới, đưa ra những nội dung luật quan trọng để phát triển nền kinh tế và đặt nền tảng cho sự phát triển đất nước nói chung.

Bên cạnh đổi mới tư duy, để phát huy vai trò dẫn dắt, mở đường Quốc hội đã chấp nhận rủi ro, mạo hiểm. Vừa rồi, Quốc hội cũng đã xây dựng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) trong Luật Khoa học công nghệ, Luật Thủ đô. Để tạo đột phá phát triển, Quốc hội cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng các cơ chế sandbox cho lĩnh vực mới, quan hệ xã hội mới để có động lực phát triển.

“Với cách làm luật mới như bây giờ, rõ ràng chúng ta phải đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng kịp thời hơn, nghiên cứu cơ chế tái giám sát, đáp ứng sự vận động của xã hội”, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương nhấn mạnh.

Lấy dẫn chứng Luật Bảo vệ môi trường ban hành năm 2020, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho biết, Luật có hiệu lực năm 2022 nhưng năm 2025 Quốc hội đi giám sát và kiến nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục ngay lập tức.

Một đổi mới mạnh mẽ khác của Quốc hội là đưa ra địa chỉ, thời hạn thực hiện đối với các Nghị quyết giám sát để đảm bảo việc tái giám sát. Tăng cường đi sâu giám sát văn bản với việc trao quyền nhiều cho Chính phủ, giám sát văn bản tiếp tục được đề cao.

Toàn cảnh Tọa đàm “Quốc hội và hoạt động lập hiến, lập pháp – Từ Hiến pháp 1946 đến cải cách thể chế trong kỷ nguyên phát triển mới” do Báo Đại biểu Nhân dân thực hiện

Toàn cảnh Tọa đàm “Quốc hội và hoạt động lập hiến, lập pháp – Từ Hiến pháp 1946 đến cải cách thể chế trong kỷ nguyên phát triển mới” do Báo Đại biểu Nhân dân thực hiện

Ngoài ra các đại biểu cũng thống nhất việc điều chỉnh quan hệ kinh tế xã hội trong kỷ nguyên số hoàn toàn khác với điều chỉnh quan hệ kinh tế xã hội trong kinh tế thị trường truyền thống. Do đó, thể chế trong kỷ nguyên số phải là thể chế mở, thích ứng nhanh, chuyển từ quản lý cái đã có sang dự báo và điều chỉnh cái sẽ xuất hiện.

Công cuộc lập pháp của Việt Nam là một hành trình bền bỉ của kế thừa và đổi mới, được nối dài từ tinh thần độc lập dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân, dân chủ, pháp quyền của Hiến pháp 1946 đến những đột phá quan trọng của Hiến pháp 2013 và yêu cầu cải cách thể chế trong kỷ nguyên phát triển mới hôm nay. Trên hành trình ấy, Quốc hội luôn giữ vai trò trung tâm, là nơi kết tinh ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, đồng thời là chủ thể kiến tạo khung khổ pháp lý cho sự phát triển đất nước.

Do đó, làm thế nào để pháp luật thực sự đi trước, mở đường và dẫn dắt phát triển chính là yêu cầu đặt ra đối với một nền lập pháp hiện đại, linh hoạt, kiến tạo và bền vững, đồng hành cùng đất nước vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới.

Chi Nguyễn

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/hien-phap-viet-nam-hanh-trinh-tu-tuong-phap-quyen-va-kien-tao-phat-trien-10402409.html