Hợp tác quốc tế thúc đẩy phát triển công nghệ chiến lược theo Nghị quyết 57

Triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định 1131/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam xác định hợp tác quốc tế là trụ cột quan trọng để phát triển khoa học nền tảng, từng bước làm chủ các công nghệ chiến lược.

Khoa học nền tảng – điểm tựa của công nghệ chiến lược

Năm 2025 được xem là dấu mốc quan trọng, đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ của toàn ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) trong triển khai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị. Trong dòng chảy đó, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Viện Hàn lâm) tiếp tục khẳng định vị trí nòng cốt trong phát triển khoa học nền tảng, thúc đẩy hợp tác quốc tế phục vụ mục tiêu làm chủ các công nghệ chiến lược của đất nước.

Ứng dụng công nghệ UAV trong vận chuyển mẫu phẩm y tế tại Hà Nội. Ảnh: XC

Ứng dụng công nghệ UAV trong vận chuyển mẫu phẩm y tế tại Hà Nội. Ảnh: XC

Theo ông Trần Hồng Thái, Phó Chủ tịch Thường trực Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ 11 nhóm công nghệ chiến lược với 35 sản phẩm trọng điểm, bao trùm các lĩnh vực then chốt như trí tuệ nhân tạo, blockchain, công nghệ bán dẫn, vật liệu mới, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học và hàng không vũ trụ. Đây là những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với năng lực cạnh tranh, tự chủ và phát triển bền vững của nền kinh tế trong dài hạn.

Phân tích sâu các nhóm công nghệ chiến lược này, Viện Hàn lâm nhận thấy một điểm chung có tính quy luật: không thể hình thành và phát triển công nghệ chiến lược nếu thiếu nền tảng khoa học cơ bản vững chắc cùng quá trình tích lũy tri thức lâu dài, bền bỉ. Thực tiễn lịch sử phát triển khoa học – công nghệ thế giới đã chứng minh rõ điều đó.

Chương trình thử nghiệm UAV đang được triển khai tại Hà Nội.

Chương trình thử nghiệm UAV đang được triển khai tại Hà Nội.

Công nghệ thông tin di động 5G, 6G ngày nay được xây dựng trên cơ sở các lý thuyết về thông tin và sóng vô tuyến đã hình thành và phát triển qua nhiều thập kỷ. Công nghệ bán dẫn, nền tảng của cuộc cách mạng số bắt nguồn từ những nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực vật lý chất rắn. Hay công nghệ chỉnh sửa gen CRISPR, được xem là một trong những đột phá y sinh quan trọng nhất của thế kỷ XXI, cũng là kết quả của quá trình nghiên cứu sâu về cơ chế miễn dịch của vi khuẩn và cấu trúc DNA.

Từ nhận thức đó, Viện Hàn lâm khẳng định, phát triển công nghệ chiến lược thực chất là quá trình đầu tư dài hạn cho khoa học nền tảng và công nghệ lõi. Đây cũng chính là sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã giao cho Viện Hàn lâm trong suốt 50 năm qua, đồng thời tiếp tục đặt ra yêu cầu cao hơn trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Ba định hướng chiến lược trong bối cảnh mới

Trong bối cảnh toàn cầu hóa khoa học và công nghệ diễn ra ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế được xác định là một trong những trụ cột quan trọng để phát triển công nghệ chiến lược. Tuy nhiên, theo quan điểm của Viện Hàn lâm, hợp tác quốc tế không dừng lại ở việc tiếp nhận công nghệ hoàn chỉnh, mà cốt lõi là tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành tri thức, làm chủ nền tảng khoa học của công nghệ.

Cách tiếp cận này mang lại ba lợi ích chiến lược. Thứ nhất, giúp Việt Nam tiếp cận những nền tảng khoa học tiên tiến mà trong nước chưa có đủ điều kiện đầu tư đầy đủ. Thứ hai, việc tham gia các mạng lưới phòng thí nghiệm và nhóm nghiên cứu quốc tế giúp rút ngắn đáng kể thời gian tích lũy tri thức, nâng cao năng lực nghiên cứu. Thứ ba, tạo điều kiện đào tạo đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ trong môi trường quốc tế, tiếp cận công nghệ hiện đại và phương pháp nghiên cứu tiên tiến.

Thu hoạch nấm linh chi sừng hươu tại Công ty TNHH công nghệ sinh học tại Thái Nguyên. Ảnh: TTXVN

Thu hoạch nấm linh chi sừng hươu tại Công ty TNHH công nghệ sinh học tại Thái Nguyên. Ảnh: TTXVN

Theo định hướng đó, hợp tác quốc tế không chỉ mang lại các sản phẩm nghiên cứu cụ thể, mà quan trọng hơn là góp phần xây dựng năng lực khoa học công nghệ nội sinh, yếu tố then chốt quyết định khả năng làm chủ và phát triển công nghệ chiến lược trong dài hạn.

Trên cơ sở chiến lược này, Viện Hàn lâm đã triển khai hợp tác quốc tế có trọng tâm, trọng điểm với nhiều đối tác chiến lược trên thế giới. Trong lĩnh vực năng lượng và vật liệu tiên tiến, Viện Hàn lâm hợp tác sâu rộng với Liên bang Nga thông qua Viện Kurchatov về vật lý hạt nhân, Tập đoàn Rosatom về năng lượng nguyên tử, cũng như Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna trong phát triển và khai thác các thiết bị nghiên cứu hiện đại. Song song với đó, Viện mở rộng hợp tác với các đối tác châu Âu như Pháp, Đức, Italia trong nghiên cứu năng lượng tái tạo, hydro xanh và vật liệu chuyển hóa năng lượng mới, những lĩnh vực then chốt phục vụ mục tiêu chuyển đổi xanh của Việt Nam.

Trong lĩnh vực công nghệ sinh học và y sinh, Viện Hàn lâm đã thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhiều trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu của Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh nhằm từng bước làm chủ công nghệ chỉnh sửa gen, chọn tạo giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, Viện Hàn lâm chú trọng học hỏi kinh nghiệm của Cuba trong phát triển sinh dược với nguồn lực hạn chế; đồng thời tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ Nga, Hàn Quốc để nâng cao giá trị kinh tế rừng, phát triển nguyên liệu xanh cho ngành dệt may từ tre, góp phần thúc đẩy chuyển đổi xanh trong công nghiệp.

Đối với khoa học Trái đất và môi trường, Viện Hàn lâm đẩy mạnh hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Ba Lan, Hungary trong khảo sát biển và địa chất; phối hợp với các tổ chức lớn như JAMSTEC của Nhật Bản, NOAA của Hoa Kỳ trong quan trắc, dự báo và cảnh báo thiên tai. Những hợp tác này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Trong lĩnh vực hàng không vũ trụ, Viện Hàn lâm tích cực tham gia các cơ chế hợp tác đa phương như Diễn đàn APRSAF, Ủy ban CEOS; đồng thời tăng cường hợp tác song phương với NASA (Hoa Kỳ), JAXA (Nhật Bản), CNES (Pháp), Roscosmos (Nga) trong khai thác và ứng dụng dữ liệu vệ tinh phục vụ quản lý tài nguyên, giám sát môi trường, phòng chống thiên tai và bảo đảm quốc phòng an ninh.

Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo vừa được Quốc hội thông qua với nhiều cơ chế, chính sách đột phá được kỳ vọng sẽ tạo khung thể chế quan trọng để giải phóng tiềm năng khoa học công nghệ. Trong bối cảnh mới, Viện Hàn lâm đề xuất ba định hướng chiến lược trọng tâm.

Thứ nhất, tập trung đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, tiến tới hình thành các phòng thí nghiệm đỉnh cao về công nghệ nền tảng. Đây sẽ là những phòng thí nghiệm mở về cơ chế hoạt động, trang thiết bị và nhân lực, trở thành điểm hội tụ của các nhà khoa học hàng đầu và doanh nghiệp công nghệ.

Thứ hai, chuyển đổi từ mô hình hợp tác quốc tế ngắn hạn, phân tán sang các chương trình hợp tác dài hạn với các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới, bảo đảm tính liên tục trong tích lũy tri thức và phát triển công nghệ.

Thứ ba, gắn chặt hợp tác quốc tế với đào tạo, bồi dưỡng thế hệ nhà khoa học kế cận, coi đây là đầu tư chiến lược cho tương lai nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia đủ năng lực làm chủ và phát triển các công nghệ chiến lược.

Theo Viện Hàn lâm, phát triển công nghệ chiến lược không thể đi tắt bằng việc nhập khẩu công nghệ đơn thuần, mà đòi hỏi con đường dài hơi, bền vững, dựa trên ba trụ cột: khoa học nền tảng vững chắc, hợp tác quốc tế thực chất và nguồn nhân lực chất lượng cao.

Với vai trò là trung tâm nghiên cứu khoa học hàng đầu của cả nước, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các bộ, ngành trong triển khai hiệu quả các cơ chế đột phá của Luật mới, qua đó đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ và công nghệ chiến lược của đất nước trong giai đoạn tới.

XM/Báo Tin tức và Dân tộc

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/xa-hoi/hop-tac-quoc-te-thuc-day-phat-trien-cong-nghe-chien-luoc-theo-nghi-quyet-57-20251228085858650.htm