Khi nào bị coi là trốn đóng, không đóng bảo hiểm xã hội?
Một trong những quy định mới về hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) vừa có hiệu lực thực thi đang được nhiều doanh nghiệp và người lao động quan tâm là Nghị định 274/2025/NĐ-CP (Nghị định 274), ngày 16-10-2025 của Chính phủ.
Theo Giám đốc BHXH tỉnh Đồng Nai Phạm Minh Thành, Nghị định 274 có hiệu lực từ ngày 30-11-2025 là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người lao động, tránh tình trạng doanh nghiệp dây dưa, kéo dài thời gian nợ đóng, gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết các chế độ BHXH, BHTN sau này.
Nộp chậm quá 60 ngày bị coi là trốn đóng
Theo Nghị định 274, hành vi trốn đóng được chia thành 3 nhóm, cụ thể: Trường hợp thứ nhất người sử dụng lao động (SDLĐ) chưa đăng ký tham gia BHXH, BHTN cho người lao động sau 60 ngày kể từ khi hết hạn. Thời điểm trốn đóng được tính từ ngày 61 trở đi.

Người lao động hoàn tất các thủ tục hưởng chế độ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai. Ảnh minh họa: Kim Liễu
Trường hợp thứ hai, người SDLĐ đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc, BHTN thấp hơn mức thực tế. Với đơn vị đóng hằng tháng, trốn đóng được tính từ sau ngày cuối cùng của tháng kế tiếp tháng phát sinh tiền lương đã đăng ký làm căn cứ đóng. Với đơn vị đóng 3 hoặc 6 tháng một lần, hành vi trốn đóng được xác định từ sau ngày cuối cùng của tháng kế tiếp chu kỳ đã đăng ký làm căn cứ đóng.
Trường hợp thứ 3, người SDLĐ chậm đóng dù đã được cơ quan bảo hiểm đôn đốc. Nếu văn bản gửi trong 45 ngày kể từ khi hết hạn đóng mà doanh nghiệp vẫn không nộp sau 60 ngày, hành vi bị chuyển thành trốn đóng từ ngày thứ 61. Nếu đơn vị bị gửi văn bản sau 45 ngày thì thời điểm trốn đóng tính từ ngày thứ 15 kể từ khi cơ quan bảo hiểm ban hành văn bản.
Giám đốc BHXH tỉnh Đồng Nai Phạm Minh Thành cho biết: Theo quy định mới, khoản tiền trốn đóng được xác định là số tiền mà doanh nghiệp không đăng ký, không đóng BHXH, BHTN hoặc kê khai mức thấp hơn thực tế, sau 60 ngày kể từ khi hết hạn mà không khắc phục. Doanh nghiệp vi phạm phải nộp lại số tiền trốn cùng tiền lãi 0,03% mỗi ngày tính trên số tiền và số ngày trốn đóng.
“Các doanh nghiệp, tổ chức, người SDLĐ cần chủ động nắm bắt, tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH, BHTN, tránh để phát sinh tình trạng chậm đóng, trốn đóng dẫn đến bị xử lý theo quy định. Đây không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là hành động thiết thực góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định quan hệ lao động và phát triển bền vững” - ông Thành nhấn mạnh.
Điều 216 Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi trốn đóng BHXH, BHYT và BHTN cho người lao động. Người có nghĩa vụ đóng bảo hiểm mà sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc cách khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ từ 6 tháng trở lên, sau khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn tái phạm, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khung hình phạt đầu tiên áp dụng với hành vi trốn đóng từ 50 đến dưới 300 triệu đồng hoặc trốn đóng cho 10 đến dưới 50 lao động, với mức phạt tiền 50-200 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù 3 tháng đến 1 năm.
Khung thứ 2 áp dụng khi phạm tội từ 2 lần trở lên, trốn đóng từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng hoặc trốn đóng cho 50 đến dưới 200 lao động, hoặc không nộp số tiền đã thu/khấu trừ của người lao động. Hình phạt có thể từ 200-500 triệu đồng hoặc phạt tù 6 tháng đến 3 năm. Khung thứ 3 quy định mức phạt nặng nhất khi trốn đóng từ 1 tỷ đồng trở lên, trốn đóng cho từ 200 lao động hoặc không nộp tiền bảo hiểm đã thu theo các trường hợp nghiêm trọng hơn; mức phạt từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù 2-7 năm.
Ngoài ra, người phạm tội có thể bị phạt bổ sung với nhiều mức khác nhau.
4 trường hợp không bị coi là trốn đóng
Điểm mới đáng chú ý của Nghị định 274 được nhiều người đánh giá cao là không cứng nhắc trong xử lý vi phạm. Theo luật sư Nguyễn Như Tuấn, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, Nghị định 274 đã mở rộng phạm vi áp dụng cho các sự kiện bất khả kháng khác được quy định tại Bộ luật Dân sự như các biến cố xảy ra khách quan, không thể lường trước và không thể khắc phục dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.
Tại Điều 4 Nghị định 274 đã quy định cụ thể 4 trường hợp không bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN khi có một trong các lý do theo công bố của cơ quan có thẩm quyền về phòng, tránh thiên tai, tình trạng khẩn cấp, phòng thủ dân sự và phòng, chống dịch bệnh như: Bão, lũ, ngập lụt, động đất, hỏa hoạn lớn, hạn hán kéo dài và các loại thiên tai khác ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh; Dịch bệnh nguy hiểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và khả năng tài chính của cơ quan, tổ chức, người SDLĐ; Tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đột xuất, bất ngờ đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, người SDLĐ; Các sự kiện bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật dân sự.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 3, Nghị định 274, người SDLĐ có trách nhiệm báo cáo nguyên nhân chậm đóng BHXH. Trường hợp vì lý do bất khả kháng, hồ sơ phải được gửi kèm trước ngày 25 của tháng có văn bản đôn đốc từ cơ quan BHXH để được xem xét miễn xử lý vi phạm.












