Khởi tố Phạm Thị Huyền, 'nữ quái' lừa đảo chiếm đoạt 450 triệu đồng
Trong khoảng thời gian năm 2016, do cần tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân, Phạm Thị Huyền đã đưa ra thông tin gian dối, hứa hẹn xin được việc, xin được chuyển công tác, xin được vào biên chế Nhà nước để tạo lòng tin và đã chiếm đoạt tổng số tiền là 450 triệu đồng của 3 người dân khác nhau.
Theo Cổng thông tin điện tử Công an tỉnh Ninh Bình, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình (Phòng Cảnh sát kinh tế) vừa ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phạm Thị Huyền, sinh năm 1983, trú tại đường Trần Bích San, phường Nam Định, tỉnh Ninh Bình về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Phạm Thị Huyền ra đầu thú để được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật. Ảnh: Công an tỉnh Ninh Bình
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình xác định: Trong khoảng thời gian năm 2016, do cần tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân, Phạm Thị Huyền đã đưa ra thông tin gian dối, hứa hẹn xin được việc, xin được chuyển công tác, xin được vào biên chế Nhà nước để tạo lòng tin và đã chiếm đoạt tổng số tiền là 450 triệu đồng của 3 người dân khác nhau.
Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Phạm Thị Huyền đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 5/11/2025, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với Công an phường Tam Hiệp, tỉnh Đồng Nai vận động thành công Phạm Thị Huyền ra đầu thú. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình, Phạm Thị Huyền đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình./.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định cụ thể tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), cụ thể như sau:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Đã bị bãi bỏ;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Đã bị bãi bỏ;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.












