Không chỉ là mưa, vì sao lũ miền Bắc lần này vượt đỉnh lịch sử?
Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh đang chịu ảnh hưởng của đợt lũ gây ngập lụt chưa từng thấy trong nhiều năm qua, gây thiệt hại nặng nề.
Cả nước đang hướng về 4 tỉnh miền Bắc: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Cao Bằng - nơi ghi nhận tình hình ngập lụt nghiêm trọng do ảnh hưởng của cơn bão số 11 (Matmo). Bước đầu ghi nhận có 8 người chết, 5 người mất tích, 7 người bị thương cùng hàng chục nghìn ngôi nhà bị ngập, hư hại tại các địa phương này.

Thái Nguyên đang chịu ảnh hưởng của đợt lũ gây ngập lụt chưa từng thấy trong nhiều năm qua, gây thiệt hại nặng nề.
Trên thực tế, lũ lớn ở miền Bắc thường tập trung ở lưu vực sông Hồng (bao gồm sông Đà, sông Lô, sông Thao), sông Thái Bình (gồm sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam) và một số sông nhánh khác.
Tình hình vận hành xả lũ có hai đợt căng thẳng lớn trong mùa mưa bão năm 2024/2025 là: Đợt do hoàn lưu bão số 3 (Yagi) vào đầu tháng 9 và đợt mưa lớn do hoàn lưu bão số 11 (Bualoi) vào đầu tháng 10.
Vào ngày 9 và 10.9.2024 sau bão số 3, thủy điện Tuyên Quang đã mở đến 8 cửa xả đáy (giảm xuống còn 1 cửa vào sáng 10.9). Lưu lượng về hồ có lúc 4.789m, khiến nước lũ dâng cao ở hạ du. Thủy điện Thác Bà mở 3/3 cửa xả, mực nước hồ tiếp tục tăng. Lưu lượng về hồ có lúc 5.238m 3/s. Thủy điện Hòa Bình mở 2 cửa xả đáy.
Tiếp đến ngày 6 và 7.10.2025 sau bão số 11, 3 hồ lớn (lưu vực Sông Hồng) và hàng chục hồ nhỏ tiếp tục vận hành xả lũ. Lũ các sông Cầu, Thương, Lục Nam vượt báo động 3, Sông Cầu vượt mức lũ lịch sử.
Hay sự cố thủy điện Bắc Khê 1 vỡ đập (dài 4-5m) vào chiều ngày 7.10 do mưa lớn kéo dài, lưu lượng nước về hồ vượt ngưỡng. Công suất 2.4MW, dung tích hồ xấp xỉ từ 4-4.7 triệu m3, gây lũ quét, ngập lụt cục bộ, ảnh hưởng đến vùng hạ du Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh.
Sự kiện vỡ đập Thủy điện Bắc Khê 1 (Lạng Sơn) vào ngày 7.10 vừa qua là một ví dụ rõ ràng về việc công trình thủy điện nhỏ gặp sự cố khi mưa lũ lớn, giải phóng một lượng nước lớn (dù dung tích nhỏ so với hồ lớn) và trực tiếp gây ngập, lũ quét ở hạ du.
Nói về nguyên nhân khiến lũ lần này ở nhiều tỉnh miền Bắc vượt đỉnh lịch sử, trao đổi với Tạp chí Một Thế Giới, tiến sĩ - kiến trúc sư Đào Ngọc Nghiêm, Phó chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho biết nguyên nhân chính là do lượng mưa quá lớn, ví dụ như khu vực xung quanh Hà Nội có lượng mưa tới 500mm trong hai ngày, vượt quá mức dự phòng là 350mm.
Còn nguyên nhân nước ở sông dâng lên cao là do kế hoạch và chương trình xả lũ. Những đập thủy điện lớn do cơ quan nhà nước quản lý thì đã được kiểm soát khi xả lũ, nghĩa là đã có sự trao đổi, thống nhất với nhau. Nhưng các thủy điện nhỏ ở các địa phương thì lại chưa trực tiếp liên kết với nhau để tạo thành một mạng chung. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nơi lũ vượt đỉnh lịch sử.
Nguyên nhân lớn nhất theo ông Nghiêm là từ thượng nguồn sông, Việt Nam chưa nắm được chính sách về kế hoạch xả lũ ở thượng nguồn thế nào. Từ xưa, sông Hồng có hơn 500km ở Việt Nam nhưng tổng chiều dài đoạn sông Hồng ở Trung Quốc là gần 600km với khoảng cách từ biên giới đến đập thủy lợi. Các đập được xây dựng rải rác trên toàn bộ chiều dài này. "Chúng ta chưa nắm được kế hoạch này, cho nên chúng ta chưa dự báo được mực nước sông lên như thế nào", ông Nghiêm cho hay,
Theo vị chuyên gia này, một vấn đề tiếp theo là mực nước sông lên thì phải thoát được nước ra phía ngoài, kể cả thoát ra ngoài biển. Tuy nhiên, công tác nạo vét chưa thể thực hiện trên toàn bộ các dòng sông, mà chỉ tập trung vào việc duy tu các luồng giao thông thủy huyết mạch, đặc biệt là các trạm bơm cuối nguồn, chưa có đủ công suất và chưa lường trước được lượng mưa như thế thì đó cũng là một nguyên nhân.
Có thể thấy, việc các thủy điện nhỏ trên các sông nhánh và suối đồng thời xả nước đã làm gia tăng đáng kể lượng nước đổ về các sông chính (Sông Cầu, Sông Thương, Sông Lục Nam), kết hợp với mưa lớn cục bộ đã khiến lũ vượt đỉnh, thậm chí vượt mức lịch sử (như sông Cầu tại Thái Nguyên).
Thủy điện nhỏ thường không có dung tích hồ chứa lớn. Tuy nhiên, nếu việc vận hành tích nước (để đảm bảo phát điện) không tính toán sát với diễn biến mưa lớn đột ngột (như hoàn lưu bão), hồ nhanh chóng đầy nước và buộc phải xả với lưu lượng lớn trong thời gian ngắn, gây lũ đột ngột cho hạ du.