Không để nghệ sĩ Việt thành người cung cấp dữ liệu miễn phí cho AI nước ngoài
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng Luật Sở hữu trí tuệ cần bảo vệ cả hình ảnh, giọng nói và phong cách sáng tạo của nghệ sĩ để tránh bị AI sao chép, tạo hình ảnh hoặc video giả mạo, khai thác trái phép.
Góp ý về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) sáng nay, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, đại biểu đoàn Hà Nội - nhấn mạnh: Việc sửa luật lần này không chỉ điều chỉnh kỹ thuật pháp lý mà còn tạo tấm lá chắn văn hóa số để bảo vệ người sáng tạo, đồng thời khẳng định chủ quyền văn hóa Việt Nam trong không gian mạng toàn cầu.
Không được cản trở việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca
Theo đại biểu Bùi Hoài Sơn, việc sửa khoản 13 điều 4 để mở rộng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp sang “sản phẩm phi vật lý” là hướng đi đúng. Tuy nhiên, trong môi trường số, khái niệm này không chỉ bao gồm mô hình hay thiết kế 3D mà còn phải tính đến hình ảnh số, giọng nói số, phong cách biểu diễn, nhân dạng số của nghệ sĩ.
Ông Sơn đề nghị bổ sung giải thích cụ thể trong điều luật nhằm bảo đảm không để giọng nói, hình ảnh hay phong cách sáng tạo của nghệ sĩ bị trí tuệ nhân tạo (AI) sao chép, tạo hình ảnh hoặc video giả mạo, khai thác trái phép.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn - ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
“Chúng ta không thể để nghệ sĩ Việt trở thành người cung cấp dữ liệu miễn phí cho AI nước ngoài” - ông Sơn nhấn mạnh, đồng thời cảnh báo nguy cơ giá trị văn hóa bị khai thác như một dạng “tài nguyên thô” nếu pháp luật không kịp thời điều chỉnh.
Khoản 2 điều 7 của dự thảo quy định việc thực hiện quyền SHTT không được cản trở sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca. Theo ông Sơn, cần bổ sung nội dung “bao gồm cả môi trường trực tuyến và nền tảng số”, đồng thời làm rõ trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cũng như của nền tảng cung cấp dịch vụ số.
“Đây là cách bảo vệ biểu tượng thiêng liêng của quốc gia trong thời đại thuật toán và AI quản trị nội dung” - đại biểu nói.
Về giám định SHTT, dự thảo sửa đổi điều 201 đã mở rộng đối tượng giám định. Tuy nhiên, theo ông Sơn, trong thời đại nội dung bị đạo nhạc, sao chép và tái tạo bởi AI chỉ trong vài giây, năng lực giám định không thể chỉ dựa trên con người mà cần có công nghệ hỗ trợ.
Ông đề nghị bổ sung yêu cầu về “năng lực giám định số”, bao gồm các công cụ nhận diện nội dung, phân tích dữ liệu AI, truy vết nguồn gốc và xác định bản quyền tác phẩm. Nếu thiếu năng lực này, dù luật cho phép giám định, việc xử lý tranh chấp bản quyền số trên thực tế vẫn sẽ bế tắc.
Cùng với đó, đại biểu đề nghị bổ sung cơ chế giải quyết khẩn cấp đối với tranh chấp nội dung số, đồng thời khuyến khích áp dụng các công nghệ gắn nhãn nguồn gốc như content ID, watermark hoặc blockchain, nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả.
Cần ranh giới rõ giữa nghiên cứu và thương mại hóa dữ liệu
Cũng trong phiên thảo luận sáng nay, đại biểu Lê Hoàng Anh (đoàn Gia Lai) cho rằng dự thảo Luật SHTT lần này có nhiều điểm tiến bộ, song nếu không xử lý kịp thời, hệ thống pháp luật sẽ tụt hậu so với thời đại dữ liệu và AI.

Đại biểu Lê Hoàng Anh (đoàn Gia Lai). Ảnh: Quang Khánh
Theo ông Hoàng Anh, một trong những vấn đề cốt lõi là xác định tác giả và chủ sở hữu đối với các sản phẩm có yếu tố AI. Hiện nay, luật quy định tác giả là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra sản phẩm trong khi thực tế, nhiều tác phẩm (từ bản nhạc, bức tranh, đến bài báo hay bản phân tích) được tạo ra hoàn toàn hoặc phần lớn bởi AI.
“Nếu vẫn giữ cách hiểu truyền thống, Việt Nam sẽ đứng ngoài làn sóng sáng tạo số vì không thể xác định quyền và trách nhiệm khi xảy ra tranh chấp” - ông nêu ý kiến.
Đại biểu đề nghị bổ sung điều khoản mới về “tác phẩm có yếu tố AI” theo hướng chỉ bảo hộ những sản phẩm có sự điều khiển, định hướng sáng tạo đáng kể của con người.
Theo đó, người vận hành, lập trình hoặc kiểm soát nội dung AI nên được xem là tác giả hợp pháp, còn các sản phẩm do AI tự sinh ra không có yếu tố con người chỉ nên được coi là dữ liệu hoặc sáng kiến phi tác phẩm.
Đề cập khoản 5 điều 7 của dự thảo cho phép tổ chức, cá nhân sử dụng dữ liệu công khai để huấn luyện và phát triển AI, ông Hoàng Anh đánh giá đây là quy định bắt kịp xu hướng nhưng còn mơ hồ, chưa phân định rõ giữa mục đích thương mại và phi thương mại.
“Nếu không quy định chặt, doanh nghiệp AI có thể khai thác kho dữ liệu văn học, âm nhạc, báo chí của hàng triệu tác giả mà không xin phép, không bồi hoàn nhưng vẫn thương mại hóa sản phẩm” - ông cảnh báo.
Đại biểu đề nghị chỉ nên cho phép sử dụng dữ liệu công khai phục vụ nghiên cứu phi thương mại, còn với mục đích thương mại phải có sự đồng ý hoặc cơ chế cấp phép tập thể từ chủ sở hữu quyền tác giả kèm theo yêu cầu minh bạch nguồn dữ liệu khi có tranh chấp bản quyền.
Theo đại biểu, việc cho phép AI khai thác dữ liệu công khai cần đồng bộ với các luật khác như Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật Công nghệ thông tin... Do đó, cần bổ sung cơ chế đăng ký hoặc công bố hệ thống AI huấn luyện dữ liệu tại Việt Nam, tương tự mô hình Úc và Liên minh châu Âu đang triển khai.













