Kinh tế xanh trước bước ngoặt lịch sử
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 và hai chữ số trong giai đoạn 2026-2030 để trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được Net Zero vào năm 2050. Đây là những mục tiêu khó, đầy thách thức nhưng không thể không thực hiện.
Bối cảnh mới, áp lực mới
Với sản lượng xuất khẩu khoảng 13 triệu tấn mỗi năm, trong đó khoảng 40% là xuất khẩu sang các quốc gia phát triển như EU (27%) và Mỹ (13%), ngành thép đang chịu áp lự lớn từ xu hướng xanh hóa từ thị trường xuất khẩu và các quy định về môi trường trong nước.
Ông Phạm Công Thảo, Phó tổng giám đốc Tổng công ty thép Việt Nam (VNSTEEL), cho biết thị trường EU bắt đầu áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) với một số sản phẩm, trong đó có nhôm thép từ năm 2026. Đến 2034, thị trường này sẽ áp dụng đầy đủ và mở rộng sang nhiều sản phẩm khác.
Với thị trường Mỹ, quá trình chuyển đổi xanh diễn ra chậm hơn nhưng có thể sẽ đảo ngược. Ở thị trường trong nước, các chính sách về môi trường của các cơ quan quản lý cũng tạo áp lực chuyển đổi xanh.
Trước bổi cảnh trên, doanh nghiệp ngành thép đang tìm kiếm các giải pháp như sử dụng lò trung tần kết hợp năng lượng tái tạo, tối ưu hóa quy trình sản xuất và chuyển đổi sang các công nghệ xanh hơn… để giảm phát thải và đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ngày càng cao, đặc biệt là trước các rào cản thương mại xanh như CBAM.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi gặp nhiều khó khăn bởi lượng vốn đầu tư lớn, việc lựa chọn công nghệ không dễ.
“Thép là một ngành sử dụng rất nhiều năng lượng, nếu không có năng lượng xanh sẽ không thể chuyển đổi thành công ngành thép sang một ngành công nghiệp xanh được. Do đó, chúng tôi rất cần Chính phủ có những cơ chế, chính sách để giúp doanh nghiệp thuận lợi trong tiếp cận nguồn năng lượng xanh”, ông Thảo nói tại diễn đàn công nghiệp xanh 2025.
Với ngành nhựa, ông Hoàng Đức Vượng, Chủ tịch HĐQT Công ty VietCycle, cho biết các sản phẩm nhựa xuất khẩu sang EU hiện yêu cầu 30% thành phần là hạt nhựa tái sinh và sẽ tăng lên 35% vào năm 2028. Đặc biệt, túi đựng rác tại EU phải chứa đến 70% hạt nhựa tái sinh.
Điều này buộc ngành nhựa Việt Nam phải đầu tư vào công nghệ và ngành tái chế để đáp ứng tiêu chuẩn. Tuy nhiên, ngành tái chế tại Việt Nam trong suốt 30-40 năm qua chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Hoạt động tái chế chủ yếu diễn ra tại hàng nghìn làng nghề trên cả nước, gây ra những vấn đề lớn về phát thải thứ cấp, ô nhiễm nguồn nước và không khí.
Trong bối cảnh trên, việc xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý như Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 08/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, cùng với việc chủ động ứng phó với các cơ chế quốc tế như CBAM của EU là những bước đi cần thiết để Việt Nam có thể đi nhanh và bền vững trên con đường tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, để giải quyết tận gốc vấn đề, cần có những chính sách đột phá về tài chính, công nghệ và các chính sách thông minh khác để tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.
Từ góc nhìn chuyên gia, TS Bùi Thanh Minh, Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), cho biết việc thực hiện đồng thời hai mục tiêu là trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 và đạt được cam kết phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 đang đặt ra những bài toán khó với Việt Nam.
Chưa kể, bối cảnh quốc tế thay đổi nhanh cũng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, có áp lực từ chuyển dịch chính sách và chuỗi cung ứng, yêu cầu carbon thấp và sự thoái trào của toàn cầu hóa để chuyển sang “khu vực hóa”.
Với châu Âu, chuyên gia này cho biết, sự gia tăng các rào cản phi thuế quan như Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), Đạo luật Chống phá rừng EU (EUDA), các yêu cầu nghiêm ngặt về chuỗi cung ứng bền vững, giá tín chỉ carbon dự kiến tăng lên 55 Euro vào năm 2026… tạo ra những hàng rào phi thuế quan, buộc hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam phải tuân thủ, làm giảm khả năng cạnh tranh.
Những vướng mắc cần tháo gỡ
Thực tế, trước áp lực chuyển đổi xanh từ các thị trường xuất khẩu, Tổng công ty May 10 đã thực hành chuyển đổi xanh từ hơn 5 năm trước, bắt đầu từ việc sử dụng những nguyên phụ liệu bền vững như nguyên phụ liệu tái chế, organic, cotton, sản phẩm sợi xanh từ cà phê…
Doanh nghiệp cũng đầu tư vào điện năng lượng mặt trời áp mái, với công suất hàng triệu kWh, tại những công trình lớn. Cùng với đó là chuyển từ sử dụng nồi hơi than đá sang sử dụng nồi hơi sinh khối, góp phần giảm thải khoảng một nghìn tấn CO2/năm và đưa vào hoạt động các nhà máy xây dựng theo tiêu chuẩn LEED tại khu vực Thái Bình và Hưng Yên.
Tuy nhiên, để doanh nghiệp và nền kinh tế đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi xanh, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Giám đốc điều hành May 10, cho rằng rất cần cơ chế về vốn các chính sách khuyến khích chuyển đổi sang sản xuất xanh.
Với vốn, hiện Việt Nam đã có cơ chế tín dụng xanh nhưng việc tiếp cận còn khó khăn do thủ tục rườm rà. Trong khi ở các nước quốc gia khác, Chính phủ có ngân sách để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp chuyển đổi xanh.
“Chúng ta đầu tư xanh sẽ cho ra sản phẩm xanh và đặc biệt sản phẩm xanh cần có thị trường, có người sử dụng. Vì thế, Nhà nước nên có những cơ chế về khuyến khích sử dụng những sản phẩm xanh, khuyến khích về thuế đối với những sản phẩm xanh đó và đối với những doanh nghiệp thực hiện công cuộc chuyển đổi xanh”, bà Thảo kiến nghị.

Dệt may đối mặt với áp lực xanh hóa. Ảnh: T.L
Ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc cấp cao, Quản lý nước và môi trường (KCN AMÂT), kể từng chứng kiến một nhà đầu tư sẵn sàng xây dựng nhà máy tái chế nhựa đạt chuẩn an toàn thực phẩm tại một khu công nghiệp ở phía Nam nhưng phải rút lui sau hai tháng vì thủ tục quá phức tạp nên không xin được giấy phép. Trong khi đó, có những địa phương như tỉnh Quảng Ninh lại đang thu hút được các dự án tương tự nhờ môi trường chính sách cởi mở hơn.
Điều này cho thấy sự thiếu nhất quán và những vướng mắc trong thủ tục hành chính đang làm lỡ mất các cơ hội đầu tư quan trọng. Vì vậy, các chính sách cần được xây dựng đồng bộ và đơn giản hóa thủ tục hành chính để thu hút đầu tư vào lĩnh vực tái chế.
Trong khi đó, TS Bùi Thanh Minh cho rằng, việc theo đuổi đồng thời hai mục tiêu là tăng trưởng cao và Net Zero vào năm 2050 đòi hỏi sự hài hòa giữa tăng trưởng và phát triển bền vững. Cụ thể, trong bối cảnh thế giới xuất hiện nhiều biến số khó lường, Việt Nam cần phải gia tăng “nội lực” thông qua phát triển năng lực doanh nghiệp trong nước và xây dựng hệ sinh thái công nghiệp toàn diện.
Theo ông, cơ quan quản lý cần thiết kế chính sách công nghiệp hợp lý với cơ cấu ngành. Chẳng hạn, dựa trên lợi thế về năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể phát triển các cụm ngành công nghiệp xanh tại các địa phương có nhiều lợi thế cạnh tranh, tạo bước phát triển đột phá của địa phương, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng và giảm phát thải quốc gia.
Bên cạnh đó, cần phát triển mô hình công nghiệp mới, nơi các chính sách về nhân lực, hạ tầng, thể chế và ưu đãi đầu tư phải được thiết kế đồng bộ. Chẳng hạn, muốn thu hút chuyên gia chất lượng cao, cần cơ chế "visa vàng", ưu đãi thuế thu nhập, cơ chế thủ tục hành chính một cửa và quy hoạch khu công nghiệp thế hệ mới có thể bao gồm cảng biển, trung tâm logistic… Có như thế thì mới tháo gỡ được những khó khăn hiện tại, tạo động lực cho kinh tế xanh phát triển mạnh trong bối cảnh mới.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/kinh-te-xanh-truoc-buoc-ngoat-lich-su/