Kỷ niệm 78 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2025)Ánh sáng trong chốn ngục tù
Bị kết án, giam cầm, tra tấn trong chốn ngục tù khắc nghiệt, các chiến sĩ cộng sản kiên trung đã dùng máu của mình viết những bức thư, dòng thơ gửi người thân, đồng chí, đồng đội...
Từ những câu thơ viết bằng máu…
Nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai và em gái Nguyễn Thị Quang Thái (người vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đều hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, để lại con thơ dại và những bài thơ, dòng thư xúc động. Câu chuyện của hai bà đang được giới thiệu trong trưng bày chuyên đề “Bút sắc, lòng son” tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
Là một trong những nữ đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Thị Minh Khai hoạt động sôi nổi cả trong nước và nước ngoài, đặc biệt trong cao trào cách mạng 1936 - 1939. Cuối năm 1940, bà bị thực dân Pháp bắt, kết án tử hình, giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Dù kẻ thù tra tấn hết sức dã man nhưng không thể lay chuyển được ý chí cách mạng kiên cường của nữ chiến sĩ cộng sản.
Trong tù, bà tiếp tục vận động chị em phụ nữ tiến hành đấu tranh, dùng máu viết thơ, viết khẩu hiệu lên tường xà lim để nêu cao khí tiết người chiến sĩ cộng sản. Vững chí bền gan ai hỡi ai/ Kiên tâm giữ dạ mới anh tài/ Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ/ Con đường cách mạng vẫn chông gai.

Nguyễn Thị Minh Khai - một trong những cán bộ kiên cường lãnh đạo phong trào đấu tranhcủa công nhân tham gia Khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 11/1940. Nguồn: hochiminh.tuoitreiuh.vn
Những dòng thơ đầy khí phách của chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai đã chứng minh cho tinh thần chiến đấu kiên cường, không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Bà phải dằn lòng gửi con nhỏ cho em gái Nguyễn Thị Quang Thái bằng một bức thư thấu tận tâm can người đọc khi biết mình bị kết án tử hình năm 1941: "Em hãy giúp chị, chừng nào Hồng Minh khôn lớn thì em đưa cháu về nuôi và dạy bảo cháu nên người...".
Và chỉ một năm sau, em gái của bà cũng bị địch bắt và tù đày tại Khu trại giam nữ tù nhân ở Nhà tù Hỏa Lò. Ba năm sau ngày chị gái Nguyễn Thị Minh Khai hy sinh thì em gái Nguyễn Thị Quang Thái cũng mất trong tù.
Bền bỉ viết 3.000 câu thơ bằng máu trong thời gian dài bị địch giam cầm, cựu chiến sĩ tình báo Nguyễn Minh Vân cũng thể hiện nghị lực và khí phách kiên cường. Qua các trại giam: Chín Hầm, Lao Xá (Huế)... giai đoạn 1957 - 1964, trong hoàn cảnh không giấy và bút, lại chịu sự tra tấn, kìm kẹp của kẻ thù, Nguyễn Minh Vân đã lột tả những khắc nghiệt của cảnh lao tù nơi địa ngục trần gian thông qua những vần thơ.

Đồng chí Nguyễn Minh Vân trước khi bị giam tại Chín Hầm (Huế). Nguồn: DTNTHL
Một cuộc tra không cần gậy, cần hèo/ Mà xương mòn, mà tủy cạn, gân teo/ Mà ruột héo, mà gan se, phổi úa/ Từng thớ thịt, từng tế bào giãy giụa/ Giãy, giãy hoài, mà vẫn sống dằng dai… Những câu thơ theo Nguyễn Minh Vân, trở thành bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bè lũ mật vụ, dưới hình thức kể chuyện, và bằng lời lẽ giản dị, chân thực, đã thể hiện rõ tinh thần của người cộng sản, lạc quan, sẵn sàng đối phó với âm mưu xảo quyệt của kẻ thù trong mọi tình huống.
… đến khát khao cháy bỏng
Tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò hiện có 17 tấm bia đồng mạ vàng, khắc tên những chiến sĩ cách mạng từng bị giam cầm, tra tấn, nhiều người đã hy sinh từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) đến ngày miền Bắc giải phóng (10/10/1954). Tại bia số 3, những chiến sĩ bị bắt vào thời điểm 1930 - 1945 ở hàng thứ 5, vần D ghi: “Đinh Nho Diệm (Quỳnh Dao) sinh 1918”.

Trại giam H - Nhà tù Hỏa Lò, nơi thực dân Pháp giam đồng chí Đinh Nho Diệm, năm 1944 - 1945
Các lão thành cách mạng của Hà Nội xác nhận, trong thời gian ở Hỏa Lò có biết thi sĩ Quỳnh Dao bị địch bắt giam tại trại H, đeo số vuông chính trị phạm. Ông là người chín chắn, ít nói, sống hòa nhập với anh em tù nhân, sáng tác văn thơ cho Báo Hỏa Lò, lấy thi ca là phương tiện đấu tranh cách mạng, tham gia đấu tranh tuyệt thực 3 ngày góp phần thắng lợi của tù nhân. Những câu thơ của Quỳnh Dao chan chứa khát khao và ý chí cách mạng sục sôi, dám dấn thân vì đất nước, có lý tưởng cách mạng kiên cường.
Trong các đêm từ ngày 11 - 16/3/1945, các tù chính trị đã vượt ngục Hỏa Lò bằng cách chui theo đường cống ngầm, Đinh Nho Diệm là một trong số tù chính trị vượt ngục thành công ngày ấy. Đó là thời điểm cận kề Tổng khởi nghĩa tháng Tám, ông cùng các đồng chí khẩn trương tỏa về nhiều địa phương chuẩn bị cho cuộc đánh Pháp, đuổi Nhật giành chính quyền về tay Nhân dân. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, ông được điều ra Hà Nội, ứng cử đại biểu Quốc hội khóa I/1946.

Nguyễn An Ninh năm 23 tuổi và tờ báo La Cloche Fêleé (Chuông rè). Nguồn: TL
Trong chốn lao tù, nhiều con chữ thấm máu của những nhà yêu nước cũng được truyền nhau lưu lại. Nhà văn hóa Nguyễn An Ninh lựa chọn hình thức đấu tranh bằng diễn thuyết, kêu gọi chống chủ nghĩa thực dân và bị thực dân Pháp bắt, giam 4 lần tại Khám Lớn Sài Gòn (1926 - 1927; 1928 - 1931; 4/1936 - 11/1936; 1937 - 1939) và Nhà tù Côn Đảo (10/1939 - 8/1943).
Chế độ lao tù khắc nghiệt tại Nhà tù Côn Đảo đã khiến sức khỏe của ông dần suy kiệt. Ngày 14/8/1943, ông hy sinh, những dòng thơ trong Bài thơ cuối cùng thể hiện lòng yêu nước, khát vọng tự do đã được bạn tù tìm thấy trong túi áo của ông: Chết vì Tổ quốc, đời khen ngợi/ Chết cho hậu thế, đẹp tương lai!
Nhà cách mạng kiên trung Nguyễn Đức Cảnh viết bài thơ Tạ từ trong những ngày cuối cùng trong xà lim để gửi tặng mẹ trước khi hy sinh… Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân chưa dễ đền nghì trời mây!/ Tạ từ vĩnh quyết từ đây/ Cúi xin từ mẫu chóng khuây nỗi buồn! Những câu thơ tỏ rõ tâm hồn trung trinh của người cộng sản không chỉ những ngày xông pha tranh đấu mà cả khi từ biệt cõi đời.
Trong xà lim tối tăm, bị cùm kẹp, những vần thơ, câu chữ ấy toát lên ánh sáng, tâm hồn lạc quan, bay bổng của những người cộng sản, thể hiện một niềm tin vào chiến thắng ngày mai. Những vần thơ ấy cũng góp phần kêu gọi đồng bào vững chí, bền gan đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.