Lãi suất nhích tăng trong cao điểm cuối năm
Càng gần về cuối năm, xu hướng tăng lãi suất huy động càng lan rộng sang hầu hết các ngân hàng thương mại, phần nào phản ánh áp lực thanh khoản gia tăng trong bối cảnh tín dụng tăng mạnh và nhu cầu vốn mùa cao điểm dồn dập.

Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam. Ảnh tư liệu: Trần Việt/TTXVN
Áp lực thanh khoản hiện hữu
Kể từ đầu quý IV, diễn biến lãi suất huy động đã trở nên sôi động hơn khi hàng loạt ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất ở nhiều kỳ hạn. Mới đây nhất, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã chính thức tham gia “cuộc đua” tăng lãi suất.
Theo biểu lãi suất mới, BIDV tăng mạnh lãi suất các kỳ hạn ngắn và trung hạn, trong đó kỳ hạn 6-11 tháng tăng tới 0,7%/năm - mức điều chỉnh hiếm thấy trong nhiều tháng qua. Riêng kỳ hạn 12 tháng được giữ nguyên, trong khi các kỳ hạn dài từ 13-36 tháng tăng thêm 0,1%/năm. Hiện lãi suất tiết kiệm trực tuyến tại BIDV dao động từ 2,6%/năm với kỳ hạn 1-2 tháng, 4%/năm cho kỳ hạn 6-11 tháng và đạt mức cao nhất 5%/năm đối với kỳ hạn 24-36 tháng.
Trước BIDV, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) cũng đã tăng lãi suất tiền gửi trực tuyến vào cuối tháng 11. Dù vậy, nếu đặt trong tương quan toàn thị trường, nhóm 4 ngân hàng lớn "Big4" vẫn giữ mặt bằng lãi suất thấp nhất. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) và VietinBank đều duy trì lãi suất cao nhất dưới hoặc xấp xỉ 5%/năm cho các kỳ hạn dài. Điều này cho thấy vai trò ổn định thị trường của nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn được giữ vững, trong khi “cuộc đua” thực sự diễn ra ở khối ngân hàng thương mại cổ phần.
Ở nhóm này, mức tăng lãi suất không chỉ mạnh mà còn linh hoạt theo từng phân khúc khách hàng. Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) nâng lãi suất kỳ hạn 12 tháng lên 6,5%/năm; Ngân hàng số Vikki Bank, Cake by VPBank hay Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) đẩy mạnh lãi suất ở cả kỳ hạn ngắn lẫn dài. Thậm chí, một số ngân hàng còn áp dụng các gói lãi suất đặc biệt lên tới 7-8%/năm với điều kiện tiền gửi lớn.
Song song với thị trường 1 (huy động từ tổ chức và dân cư), diễn biến trên thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng) phản ánh rõ nét hơn áp lực thanh khoản ngắn hạn. Lãi suất qua đêm tăng lên mức 5,4%, kỳ hạn 1 tuần lên 5,82%, tăng mạnh so với cuối tháng 11. Việc lãi suất liên ngân hàng tăng nhanh, đặc biệt ở nhóm kỳ hạn ngắn, cho thấy các ngân hàng đang phải xoay vòng vốn gấp hơn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cuối năm.
Bài toán cân đối dòng vốn

Nhiều ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất ở các kỳ hạn. Ảnh tư liệu: Phạm Hậu/TTXVN
Theo giới phân tích, nguyên nhân chính khiến các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất huy động xuất phát từ yếu tố mùa vụ. Cuối năm là giai đoạn nhu cầu vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế tăng cao, trong khi các ngân hàng cần đẩy mạnh tín dụng để hoàn thành chỉ tiêu cả năm.
Thực tế, tăng trưởng tín dụng đã phục hồi mạnh từ quý III và tăng tốc trong những tháng cuối năm. Tính đến ngày 27/11/2025, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với đầu năm, mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Đáng chú ý, tín dụng đã vượt mục tiêu tăng 16% so với cuối năm 2024, trong khi đó, tốc độ tăng huy động vốn thấp hơn đáng kể, khiến nhiều ngân hàng nhanh chóng sử dụng gần hết hạn mức tín dụng được cấp.
Không chỉ tăng nhanh về quy mô, tín dụng còn cho thấy sự mất cân đối về cơ cấu. Gần 70% tổng tín dụng chảy vào khu vực dịch vụ, trong khi khu vực sản xuất vật chất - nền tảng cho tăng năng suất và xuất khẩu - chỉ chiếm 24%, còn nông, lâm, thủy sản chưa đến 6,2%. Điều này đặt ra thách thức kép cho điều hành tiền tệ - vừa phải đảm bảo đủ vốn cho tăng trưởng, vừa phải kiểm soát rủi ro và định hướng dòng tín dụng vào khu vực bền vững hơn.
Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tăng trưởng tín dụng đến cuối năm có thể đạt 19-20%, cao hơn mức định hướng ban đầu. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh “room” tín dụng một cách linh hoạt, ưu tiên các ngân hàng đáp ứng đầy đủ các chuẩn an toàn như Basel II, Basel III, đồng thời tăng cường giám sát để tránh rủi ro hệ thống.
Nhận định này cho thấy lãi suất huy động tăng không phải tín hiệu bất ổn, mà là phản ứng tự nhiên của thị trường trước nhu cầu vốn cao và áp lực cân đối dòng tiền. Trong bối cảnh đó, việc một số ngân hàng điều chỉnh lãi suất tăng thêm khoảng 0,5-1%/năm được xem là nằm trong kịch bản có thể kiểm soát.
Ở góc độ người gửi tiền, dù lãi suất thực vẫn ở mức thấp, kênh tiết kiệm chưa bao giờ mất vai trò. TS. Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, cho rằng đối với người cao tuổi hoặc người đã nghỉ hưu, gửi tiết kiệm vẫn là lựa chọn tối ưu nhờ tính an toàn và ổn định, đặc biệt so với các kênh đầu tư như vàng hay bất động sản vốn tiềm ẩn rủi ro và khó quản lý. Đáng chú ý, trong bối cảnh lãi suất chưa thực sự hấp dẫn cho đầu tư dài hạn, nhiều người gửi tiền lựa chọn tiết kiệm ngắn hạn như một “bãi đỗ tạm thời” cho dòng tiền.
Nhìn tổng thể, xu hướng tăng lãi suất huy động cuối năm phản ánh đúng quy luật thị trường và nhịp vận động của nền kinh tế. Đây là giai đoạn các ngân hàng phải cân đối lại nguồn vốn để đáp ứng tăng trưởng tín dụng cao, trong khi Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ vai trò “nhạc trưởng” điều tiết để tránh những cú sốc về lãi suất. Với cấu trúc vốn nhiều tầng và hệ thống quản trị rủi ro ngày càng hoàn thiện, khả năng đảm bảo thanh khoản và an toàn hệ thống vẫn được đánh giá ở mức tích cực.
Lãi suất có thể tiếp tục nhích lên trong thời gian tới, song theo các chuyên gia, biên độ tăng sẽ không lớn và vẫn nằm trong ngưỡng hợp lý, đủ để giữ ổn định thị trường tiền tệ mà không làm gián đoạn đà phục hồi của sản xuất, kinh doanh.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước, trong đó có quyết định về lãi suất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và lộ trình, định hướng về lãi suất của cơ quan này được công bố vào giữa tuần sau để điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho tổ chức tín dụng một cách linh hoạt qua nhiều kênh, qua đó ổn định thị trường tiền tệ, ngoại tệ, đặc biệt trong thời gian cao điểm cuối năm, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.














